This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Phụ nữ dự định mang thai có cần uống sắt và acid folic?

Tôi năm nay 36 tuổi, đã có một con trai. Hiện vợ chồng tôi đang dự định sinh cháu thứ hai. Qua tìm hiểu thông tin tôi được biết là phụ nữ dự định mang thai nên bổ sung sắt và acid folic. Vậy xin báo tư vấn cho tôi có nên uống thuốc không và uống như thế nào. Xin chân thành cảm ơn!

Nguyễn Thị Hạnh (Đồng Nai)

Rau xanh thẫm chứa nhiều acid folic.

Để sinh ra được những đứa con khỏe mạnh, thông minh, người mẹ cần phải bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết từ trước khi mang thai bằng chế độ ăn uống hoặc thuốc. Nhiều khi đợi có thai mới bổ sung thì đã muộn, nhất là với acid folic thì lại càng phải bổ sung sớm từ trước khi có thai 3 tháng.

Acid folic hay còn gọi là vitamin B9 cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật và cần thiết cho sự hình thành của tế bào máu. Nhu cầu acid folic đối với người bình thường là 180 - 200mcg/ngày, nhưng với phụ nữ mang thai tăng lên 400mcg/ngày để đáp ứng sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào cũng như tăng kích thước của tử cung, cần cho sự tổng hợp nhân tế bào và protein, hình thành rau thai, tăng trưởng của bào thai và do tăng thải folat qua nước tiểu trong khi mang thai. Nếu bị thiếu acid folic trong khi mang thai thì bà mẹ có thể bị thiếu máu hồng cầu khổng lồ, nguy cơ sảy thai cao, sinh non, suy dinh dưỡng bào thai và điều quan trọng nhất là sinh ra đứa con bị khuyết tật của ống thần kinh (nứt đốt sống, não úng thủy, thai vô sọ). Sự khuyết tật của ống thần kinh thường xảy ra vào ngày thứ 28 sau khi thụ thai. Do vậy phải bổ sung acid folic từ trước khi thụ thai mới có hiệu quả dự phòng khuyết tật ống thần kinh cho thai nhi, nồng độ acid folic phải bảo đảm đủ cao vào thời điểm thụ thai. Các nhà khoa học khuyến cáo tất cả phụ nữ dự định mang thai phải bắt đầu bổ sung đủ acid folic 3 tháng trước thời điểm dự định có thai bằng chế độ ăn uống các thực phẩm giàu acid folic hoặc uống thuốc.

Chị có thể ăn nhiều các loại thực phẩm giàu acid folic như: gan động vật (lợn, gà, bò), các loại rau lá màu xanh thẫm: rau muống, rau ngót, rau súp lơ xanh... hoặc bổ sung bằng dạng thuốc uống với liều 400mcg acid folic/ngày trước khi mang thai ít nhất là 3 tháng và uống kèm với viên sắt từ khi phát hiện có thai đến sau sinh 1 tháng. Nên chọn loại có chứa 60mg sắt nguyên tố và 400mcg acid folic. Chúc chị mạnh khỏe và sinh được cháu bé như mong muốn!

ThS. Lê Thị Hải (Viện Dinh dưỡng quốc gia)

Một số bệnh mạn tính và thai nghén – Kỳ III

Bệnh đái tháo đường trong thời gian mang thai

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) trong thời gian mang thai là thể bệnh xảy ra khi có thai, với tỷ lệ khoảng 4% tổng số phụ nữ có thai, thường bắt đầu vào tháng thứ 5 - 6 của thai nghén (giữa tuần lễ thứ 24 - 28). Trong hầu hết các trường hợp, bệnh qua đi sau khi đã sinh con. Mức đường huyết cao trong máu, có hại cho cả mẹ và thai. Khi bị bệnh ĐTĐ, cơ thể không thể sử dụng được đường (glucoza) trong máu cũng như mức đường huyết trở nên cao hơn bình thường.

Những yếu tố nguy cơ phát triển bệnh ĐTĐ trong thời gian mang thai:

- Béo phì: chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) từ 30 trở lên.

- Tiền sử gia đình có bệnh ĐTĐ týp 2.

- Phụ nữ từ 35 tuổi trở lên mới có thai.

- Nếu lần trước đã sinh con to (khoảng từ 3,7-4,5kg).

- Có cao huyết áp.

- Có yếu tố chủng tộc: ví dụ người Mỹ gốc Tây Ban Nha, gốc Phi, thổ dân Mỹ, người dân ở Đông hay Nam Á, ở các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương.

Việc chăm sóc trước sinh có ý nghĩa quan trọng với phụ nữ mang thai, nhất là với những phụ nữ đã có yếu tố nguy cơ bị bệnh ĐTĐ khi mang thai.

Bệnh ĐTĐ khi có thai cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo sự an toàn, lành mạnh cho cả mẹ và con.

Nếu không được điều trị thì thai sẽ dễ có bệnh ngay khi sinh ra như có mức đường huyết thấp, vàng da hoặc có cân nặng hơn bình thường.

Sức khỏe của người mẹ cũng bị ảnh hưởng, có thể sinh khó hoặc phải mổ lấy thai nếu con quá to.

Người phụ nữ bị ĐTĐ khi có thai cần theo chế độ ăn do thầy thuốc yêu cầu chẳng hạn: kiêng đồ ngọt như: bánh ngọt, kẹo, kem... mà chỉ nên ăn những thứ có đường tự nhiên như hoa quả. Nếu thấy đói giữa các bữa ăn chính thì chỉ nên ăn hoa quả, cà rốt... đường có trong bánh mì, cơm, khoai tây và hoa quả tốt cho cả mẹ và con. Chế độ ăn cũng cần cân đối và mỗi bữa ăn, không nên ăn nhiều, chỉ vừa đủ cho sự tăng cân khi có thai, thầy thuốc sẽ có hướng dẫn cụ thể.

 Ảnh: Gettyimages.com
Vận động thân thể đều đặn, phù hợp với sức khỏe là cần thiết và an toàn cho cả mẹ và thai. Hãy bắt đầu tập vận động từ 5-10 phút trở lên, nếu thấy khỏe thì tăng lên 30 phút hoặc hơn cho mỗi buổi tập. Buổi tập càng dài thì mức đường huyết càng được kiểm soát tốt và luôn thử máu để kiểm tra mức đường huyết và cần dùng cả thuốc để giữ cho đường huyết ổn định. Cũng cần thận trọng với cường độ luyện tập: đừng tập quá nặng hoặc bị nóng quá, tùy theo tuổi tác, không nên để mạch nhanh quá 140 - 160 mỗi phút trong lúc luyện tập; nếu cảm thấy chóng mặt hoặc đau lưng hoặc đau ở đâu đó trong khi tập thì nên ngừng và báo cho thầy thuốc biết. Nếu có cơn co tử cung, ra máu âm đạo hoặc thấy ra nước ối thì cần đến bệnh viện ngay.

Xét nghiệm đường huyết đều đặn giúp cho thầy thuốc biết chế độ ăn và luyện tập có làm cho mức đường huyết ổn định không.

Phải mất vài tuần sau sinh thì bệnh ĐTĐ mới qua đi. Để biết chắc bệnh đã qua, sau sinh 1-2 tháng, thầy thuốc sẽ cho làm một xét nghiệm máu đặc biệt khác nữa. Ngay cả khi bệnh ĐTĐ đã lui sau sinh, việc vận động, theo dõi cân nặng và theo một chế độ ăn lành mạnh vẫn cần tiếp tục. Có như thế thì mới hy vọng không bị ĐTĐsau này.

Bệnh mụn giộp và thai nghén

Khi nào dễ bị nhiễm bệnh mụn giộp?

Khi hệ thống miễn dịch suy yếu, không thể chống đỡ có hiệu quả trước sự xâm nhập của virus. Khi hệ miễn dịch chưa trưởng thành: một số trường hợp, sự tiếp xúc với bệnh mụn giộp có thể đe dọa nghiêm trọng sức khỏe thai nhi và trẻ trong năm đầu tiên.

Lây nhiễm virus mụn giộp khi mang thai và khi sinh: những nguy cơ lây nhiễm cho mẹ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời điểm người mẹ bị nhiễm virus lần đầu, tần suất các đợt bùng phát, người phụ nữ mang thai có biết mình đã nhiễm virus mụn giộp hay không vì có khi không thấy biểu hiện gì.

Nếu người phụ nữ tiếp xúc lần đầu với virus mụn giộp từ trước khi có thai: trong trường hợp này, nguy cơ thai bị nhiễm virus thực sự đáng ngại. Có thể hạn chế được nguy cơ nếu thầy thuốc sản khoa biết rõ tiền sử bệnh của cha mẹ, để có các biện pháp phòng ngừa và điều trị cần thiết ngay từ khi có thai và khi chuyển dạ. Cũng có khi cần chỉ định mổ lấy thai.

Nếu người phụ nữ tiếp xúc lần đầu với virus mụn giộp trong thời gian mang thai: dù rất hiếm nhưng trong trường hợp này thì nguy cơ lây nhiễm cho con khi chuyển dạ rất lớn và có thể nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh. Cần nhận biết đợt bùng phát đầu tiên khi đang mang thai để báo cho thầy thuốc biết. Thực hành mọi biện pháp thận trọng khi sinh và trẻ sơ sinh có thể phải được điều trị ngay từ khi sinh ra.

Nếu không bao giờ có đợt bùng phát mụn giộp: cũng chưa thể loại trừ nguy cơ, vì một số người tuy đã bị nhiễm virus mụn giộp nhưng không bao giờ bộc lộ triệu chứng. Vẫn có những đợt virus phát tán nhưng không có dấu hiệu nào; dù không có triệu chứng nhưng nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang con vẫn có thể xảy ra. Trẻ sơ sinh có tổn thương của bệnh mụn giộp có nghĩa là mẹ đã bị mụn giộp sinh dục. Chẩn đoán trẻ sơ sinh bị bệnh mụn giộp được tiến hành rất nhanh và trẻ cần được điều trị ngay.

Làm thế nào để giảm nguy cơ lây nhiễm khi đang mang thai?

Nếu như đã có những đợt bùng phát bệnh mụn giộp ở vợ và chồng: cần để ý và báo cho thầy thuốc mọi hiện tượng đau dù ít ở cơ quan sinh dục (ngứa, cảm giác bỏng rát, nhoi nhói như kim châm, hay chỉ thấy khó chịu nhưng dễ tái diễn). Ngừng quan hệ tình dục trong thời gian có bùng phát, nhất là theo đường miệng nếu một trong 2 bạn tình có nốt ngứa nghi ngờ.

Nếu không bao giờ có đợt bùng phát ở cặp vợ chồng: nên nhớ rằng luôn có nguy cơ ngay dù 1 trong 2 người không bao giờ có biểu hiện bị mụn giộp sinh dục. Khi không có tiền sử và/hoặc không có dấu hiệu mụn giộp sinh dục cũng chưa thể yên tâm, vì ngày nay chưa có các phương tiện phát hiện bệnh có hiệu quả. Cách phòng ngừa duy nhất để ngăn chặn sự lây nhiễm virus có thể xảy ra là dùng bao cao su khi quan hệ tình dục trong 2 tháng cuối của thai nghén.

Cách nhận biết đợt bùng phát bệnh mụn giộp? Dù thai nghén ở giai đoạn nào mà thấy ngứa, bỏng rát, cảm giác nhoi nhói như kim châm ở vùng âm hộ và âm đạo cũng cần gặp bác sĩ. Vùng nhiễm khuẩn có màu đỏ, sau đó xuất hiện các mụn nước nhỏ tụ thành đám. Chính những mụn nước này chứa đầy virus khi vỡ ra sẽ tạo nên tổn thương hở, đôi khi rất đau. Sau khoảng 10 ngày mới lành sẹo, tạo thành vẩy và bong. Mọi dấu hiệu này có thể kèm theo với sốt, đau lưng, nhức đầu và đau bụng.

Khi có đợt bùng phát mới, khi có các tổn thương đau, dễ kích thích hay khi chỉ khó chịu ở cơ quan sinh dục cần gặp ngay thầy thuốc?

Giảm nguy cơ lây nhiễm cho trẻ sau khi sinh

Vài tháng đầu sau khi sinh, trẻ rất dễ bị bệnh vì hệ miễn dịch còn non trẻ, chưa có khả năng chống lại một số bệnh. Ở giai đoạn này, lây nhiễm virus mụn giộp có thể xảy ra khi người lớn bị chốc mép hôn hít trẻ và hậu quả có thể nghiêm trọng với trẻ. Khi trong tiền sử ở bố mẹ có mắc bệnh mụn giộp, cần báo cho thầy thuốc để có các biện pháp phòng ngừa đặc biệt cho trẻ.

Vệ sinh cho trẻ cần được tăng cường: tiếp xúc với trẻ phải rửa tay sạch, khăn, tã của trẻ phải để riêng, tuyệt đối không hôn hít trẻ khi có chốc mép. Gặp thầy thuốc ngay khi trẻ có những mụn nước trong trên da, khi mắt trẻ đỏ và khóc nhiều, bỏ bú, ngủ cả khi tắm hay khi ăn, dễ kích thích… Có khi sốt kéo dài và co giật.

Trẻ sơ sinh nhiễm HSV

Nhiễm HSV ở trẻ sơ sinh hiếm nhưng nghiêm trọng, do lây truyền dọc HSV (virus gây mụn giộp) từ mẹ sang con. Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị nhiễm HSV từ mẹ khoảng 3,61 cho 100.000 trường hợp sinh ra sống ở Úc (tương tự ở Anh, nhưng thấp hơn nhiều ở Mỹ). Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh nhiễm HSV cao (tới 25%) mặc dầu hiện nay đã có thuốc chống virus. Nguyên nhân tử vong ở trẻ sơ sinh là do HSV lan tràn khắp cơ thể và/hoặc do HSV gây viêm não.

BS. Đào Xuân Dũng

Chửa ngoài dạ con

Với thai nghén bình thường, sau khi noãn thụ tinh, trở thành "trứng" sẽ được chuyển dần vào trong dạ con theo ống dẫn trứng. Thông thường, sự thụ tinh diễn ra ở 1/3 phía ngoài của ống dẫn trứng và trứng thụ tinh sẽ vừa di chuyển vào dạ con vừa phát triển thành phôi và phải vài ba ngày sau phôi mới vào đến buồng dạ con để "làm tổ" và phát triển tại đó. Nếu vì một lý do nào đó, phôi không chuyển được vào trong dạ con (thường gặp nhất là bị mắc lại trên đường di chuyển của ống dẫn trứng, dừng lại làm tổ, phát triển và lớn lên ngay tại đó). Lòng ống dẫn trứng chỉ nhỏ như cái tăm, không phù hợp với sự phát triển lớn dần lên của phôi thai và hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra là khi phôi thai to đến một mức nào đó sẽ phá vỡ ống dẫn trứng giống như đường ống dẫn nước bị bục vỡ, gây chảy máu dữ dội trong ổ bụng, có thể làm người bệnh tử vong nhanh chóng. Để tránh tai biến nguy hiểm đó, cần phải phát hiện sớm tình trạng thai ngoài dạ con ngay từ khi nó chưa vỡ. Điều này không chỉ thầy thuốc cần biết mà bất cứ chị em nào cũng nên tìm hiểu để tránh được tai biến vỡ chửa ngoài dạ con (dù có được đưa đến bệnh viện cũng đã muộn, có khi không cứu vãn được).

 Các giai đoạn của chửa ngoài tử cung bị vỡ.
Những biểu hiện khi bị chửa ngoài dạ con?

- Trước hết, cũng giống như phụ nữ có thai khác, người phụ nữ chửa ngoài dạ con cũng có tình trạng mất kinh. Ở một phụ nữ đang có kinh nguyệt đều hàng tháng tự nhiên bị chậm đi vài ba ngày là phải nghĩ đến có thai và nếu chậm đã đến 5-7 ngày thì có thể 70-80% là có thai.

- Bên cạnh tình trạng mất kinh, cũng có thể xuất hiện các dấu hiệu nghén như mệt mỏi, ăn uống kém, thèm ăn những thứ linh tinh (nhất là của chua), lợm giọng, buồn nôn hoặc nôn. Tuy nhiên không phải ai cũng có đầy đủ các triệu chứng đó.

- Ngoài hai triệu chứng có thai kể trên, người bị chửa ngoài dạ con thường đau âm ỉ một bên bụng dưới (bên phải hoặc bên trái vùng dưới rốn). Tính chất đau không thường xuyên, thỉnh thoảng thấy nhói lên một chút, có khi cũng chẳng gây khó chịu gì nhiều và dễ bị bỏ qua.

- Cùng với đau ở bụng dưới, người bị chửa ngoài dạ con còn thấy ra một chút máu ở cửa mình. Số lượng máu ra không nhiều, nếu đóng khăn vệ sinh theo dõi thì dễ phát hiện được. Trên khăn vệ sinh sẽ thấy dính một thứ máu đen (không đỏ tươi như trường hợp dọa sảy), có thể lợn cợn một vài hạt nhỏ như bã cà phê đi kèm. Đặc điểm ra máu này là do phôi “làm tổ” tại ống dẫn trứng khiến ống này dãn ra, ít nhiều bị tổn thương ở bên trong gây rỉ máu. Vì ở vị trí xa với âm đạo nên khi thấm được ra băng vệ sinh, máu đã đen lại và kèm theo những cục máu đông nhỏ li ti tạo nên.

Với người phụ nữ chỉ cần thấy chậm kinh, có hoặc không kèm theo tình trạng nghén, nếu thấy đau bụng và ra máu như đã mô tả thì cần phải đi khám ngay tại cơ sở y tế gần nhất. Chính vì để tránh chửa ngoài tử cung cũng như những tai biến khác ở thời kỳ đầu thai nghén mà cán bộ y tế thường khuyên chị em phải đi khám thai sớm, ngay khi thấy chậm kinh trong vòng một - hai tuần lễ.

Tại cơ sở y tế, các thầy thuốc sẽ thăm khám cụ thể và thường cho làm hai xét nghiệm, đó là: thử thai bằng que thử nhúng vào nước tiểu và gửi đi xét nghiệm siêu âm. Với người chửa ngoài dạ con đã có dấu hiệu ra máu thì chắc chắn khi đó phôi thai đã làm tổ tại một vị trí nào đó và như vậy, nước tiểu của chị em này đã có chất hCG (chất có trong nước tiểu từ khi phôi bắt đầu làm tổ) làm cho que thử thai xuất hiện 2 vạch đỏ. Còn siêu âm lúc này thực ra không phải là để tìm khối thai nằm ở đâu mà để xác định trong dạ con không thấy hình ảnh thai và túi ối (còn túi ối đó lạc chỗ ở một nơi nào đó thì không dễ gì phát hiện được lúc quá sớm này). Tóm lại, nếu thầy thuốc thấy có những triệu chứng lúc khám lâm sàng, thấy phản ứng dương tính khi thử nước tiểu (có 2 vạch đỏ) và siêu âm không thấy túi ối ở trong dạ con thì có thể nghĩ nhiều đến chửa ngoài dạ con. Trong trường hợp này, nhất thiết người phụ nữ phải được vào bệnh viện làm một số xét nghiệm khác, theo dõi chặt chẽ và cuộc mổ có thể thực hiện sớm ngay khi chửa ngoài tử cung chưa bị vỡ (đây cũng là lúc có thể mổ bằng nội soi). Trong một số trường hợp, ở những cơ sở bệnh viện lớn còn có thể điều trị nội khoa bằng thuốc, không phải mổ.

BS. Phó Đức Nhuận

Những bộ phận cơ thể mất đi, con người vẫn sống

Lá lách

Lá lách nằm ở phía bên trái của bụng, sát với xương sườn. Bao bọc xung quanh lá lách là một lớp mô mỏng như giấy nên dễ dàng bị rách khi bị va chạm, chấn thương mạnh. Máu chảy ra từ lá lách khi xảy ra chấn thương vùng bụng khi mất lớp bao bọc có thể khiến người bệnh tử vong. Lá lách có hai màu: đỏ đậm và những túi nhỏ màu trắng. Màu đỏ liên quan đến việc lưu trữ và tái tạo tế bào hồng cầu, trong khi đó, màu trắng liên quan đến việc lưu trữ các tế bào bạch cầu và tiểu cầu. Nếu lá lách bị vỡ, có thể phải cắt bỏ nhưng bạn vẫn có thể sống khi thiếu bộ phận này. Các cơ quan khác trong cơ thể sẽ đảm nhiệm hầu hết các chức năng do lách thực hiện. Điều này do gan đóng vai trò trong việc tái tạo tế bào hồng cầu và các mô bạch huyết khác trong cơ thể sẽ đảm nhiệm chức năng miễn dịch của lá lách. Tuy nhiên, vì chức năng của lá lách giúp bảo vệ chống lại nhiễm trùng nên khi mất đi lá lách, người bệnh sẽ có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, đặc biệt là sau khi mổ.

Dạ dày

Dạ dày thực hiện 4 chức năng chính là tiêu hóa bằng cách co bóp để nghiền nát thức ăn, tiết ra acid để phân hủy thức ăn, sau đó hấp thụ và bài tiết. Có những trường hợp phải phẫu thuật cắt bỏ dạ dày của người bệnh vì bệnh ung thư hoặc chấn thương. Bác sĩ sẽ nối trực tiếp thực quản với ruột non. Sau một thời gian phục hồi, bệnh nhân có thể ăn uống được bình thường bên cạnh việc bổ sung vitamin.

Một số bộ phận cơ thể mất đi nhưng không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống.

Một số bộ phận cơ thể mất đi nhưng không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống.

Cơ quan sinh sản

Cơ quan sinh sản chính ở nam giới và nữ giới là tinh hoàn và buồng trứng. Nguyên nhân cơ quan sinh sản bị loại bỏ thường do ung thư hoặc chấn thương. Việc cắt bỏ tử cung sẽ khiến phụ nữ không thể sinh con, đồng thời ngừng chu kỳ kinh nguyệt. Nhưng khi thiếu những bộ phận này, cơ thể con người vẫn sống bình thường. Trường hợp của một phụ nữ mắc Hội chứng Mayer - Rokitansky - Kuster - Hauser hiếm gặp khiến cô sinh ra đã không có âm đạo, không có kinh nguyệt nhưng vẫn có chu kỳ hormon. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ cắt bỏ buồng trứng không bị giảm tuổi thọ và thú vị là ở một số nam giới, việc cắt bỏ tinh hoàn còn giúp họ tăng tuổi thọ.

Đại tràng

Đại tràng là nơi tiếp nhận thức ăn đã được tiêu hóa ở dạ dày và hấp thu từ ruột non chuyển đến. Nó có tác dụng hấp thu muối khoáng và nước từ thức ăn nhờ sự hỗ trợ phân hủy của các vi khuẩn tạo thành các chất thải (phân). Khi đại tràng bị cắt bỏ, bệnh nhân có thể phải mang một túi bên ngoài để chứa phân. Vì phân không thể di chuyển xuống hậu môn như bình thường, bác sĩ sẽ tạo ra một chỗ thoát, hay hậu môn nhân tạo trên thành bụng. Túi có kích thước bằng bàn tay. Hầu hết mọi người hồi phục sau phẫu thuật và quen với sự xuất hiện của hậu môn giả này.

Túi mật

Là nơi dự trữ mật do gan bài tiết ra. Khi ăn thức ăn, túi mật có chức năng co bóp để đẩy dịch mật qua đường mật vào ruột non giúp tiêu hóa thức ăn. Những nơi lắng đọng bất thường của các thành phần chính trong dịch mật sẽ hình thành nên bùn mật, sỏi mật. Sỏi mật thường gây ra đau đớn, thậm chí làm tắc nghẽn các ống mật. Khi điều này xảy ra, bác sĩ tiến hành phẫu thuật cắt túi mật. Mỗi năm, có khoảng 70.000 người thực hiện thủ tục phẫu thuật này ở Anh.

Ruột thừa

Ruột thừa là một túi mỏng hình con giun dài gắn liền với ruột già. Ruột thừa là nguồn dự trữ vi khuẩn có lợi cho tiêu hóa đặc biệt hữu ích khi cơ thể bị tiêu chảy nặng. Ruột thừa cũng giúp bù đắp lượng vi khuẩn tốt và chống lại sự tấn công của vi khuẩn xấu. Người bị viêm ruột thừa sẽ có triệu chứng đau ở quanh rốn rồi lan sang bụng phải. Đôi khi người bệnh thấy cơn đau biến mất và cảm thấy mình đã khỏe. Tuy nhiên, nó có thể báo hiệu ruột thừa bị vỡ, chất lỏng thấm vào ổ bụng sẽ gây ra nhiễm trùng và viêm phúc mạc. Trong trường hợp này, người bệnh cần được tiến hành phẫu thuật ngay lập tức để làm sạch khoang bụng nếu không sẽ nguy hiểm tính mạng.

Thận

Hầu hết mọi người đều có hai quả thận nhưng nhiều người vẫn sống sót nếu còn lại một quả, thậm chí không còn quả thận nào nhờ sự giúp đỡ của máy chạy thận nhân tạo. Thận có chức năng lọc máu để duy trì nước và cân bằng điện giải cũng như cân bằng axit - bazơ trong máu. Các chất không cần thiết sẽ được đào thải qua nước tiểu. Có nhiều lý do khiến phải cắt bỏ một bên hoặc cả hai bên quả thận như thận tổn thương nặng nề do rượu hoặc ma túy, thậm chí bị nhiễm trùng. Nếu người bệnh bị cắt bỏ cả hai quả thận, họ sẽ phải được tiến hành lọc máu. Nếu một người phải chạy thận, tuổi thọ của họ sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại máy chạy thận, giới tính, độ tuổi, các bệnh tật khác mà bệnh nhân đang mắc phải. Nghiên cứu gần đây cho thấy một người chạy thận lúc 20 tuổi có khả năng sống thêm 16-18 năm, trong khi đó, bệnh nhân 60 tuổi phải chạy thận chỉ có thể sống được thêm 5 năm.

Quang Thành

((Theo Iflscience, 4/2018))

Cắt lá lách có ảnh hưởng khả năng sinh con?

Phạm N.D (phucbua94nd@gmail.com)

Trong thư bạn không nói rõ bạn bị cắt lách do chấn thương dập vỡ lách hay lách to do bệnh nội khoa như bệnh Thalassemia. Những người bệnh này khi bị lách to phải cắt để phòng tránh nguy cơ chấn thương gây vỡ lách dẫn đến chảy máu ồ ạt sẽ nguy hiểm tính mạng. Dưới đây là những điều bạn nên biết về bệnh Thalassemia: 2 người bị Thalassemia không nên lập gia đình dù thể nhẹ vì người bị Thalassemia nhẹ hoặc người mang gene bệnh thường không biểu hiện triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, nếu 2 người bị Thalassemia nhẹ kết hôn với nhau thì con sinh ra có 25% nguy cơ bị Thalassemia thể nặng do nhận cả 2 gene của bố và mẹ truyền cho, 50% khả năng con bị bệnh mức độ nhẹ do gene bệnh của bố hoặc của mẹ truyền cho, 25% khả năng con bình thường. Trường hợp 2 người cùng mang gene bệnh Thalassemia kết hôn với nhau, nên được tư vấn trước khi dự định có thai. Nếu cặp vợ chồng cùng mang một thể bệnh Thalassemia có thai, nên được chọc ối chẩn đoán trước sinh tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Vì vậy, lời khuyên của chúng tôi là bạn và bạn đời nên khám tư vấn di truyền trước khi kết hôn. Nếu đã kết hôn thì khi mang thai cần chọc ối để kiểm tra xem thai nhi có mang gene bệnh không, từ đó quyết định có cần phải chấm dứt thai nghén hay không.

BS. Nguyễn Kim Dung

Sảy thai liên tiếp

Có nhiều bà mẹ khấp khởi vì mình mang thai nhưng rồi thai lại sảy liên tục. Trong 1000 phụ nữ mang hai có khoảng 5-10 người đau khổ như thế. Có nhiều nguyên nhân gây sảy thai (ST), nhưng dưới đây chỉ xin nói đến những người bị ST , nhưng dưới đây chỉ xin nói đến những người bị ST tự nhiên liên tục từ ba lần trở lên và được gọi là ST thường xuyên.

Thế nào được gọi là ST liên tiếp?

ST là hiện tượng thai ra ngoài bụng mẹ một cách tự nhiên, không giữ lại được. ST liên tiếp (RPL: repeated pregnancy loss) chiếm tỷ lệ 0,5-1% phụ nữ mang thai. RPL được định nghĩa là ST 3 lần liên tiếp trước tuần thứ 20, hay cân nặng của thai chưa tới 1/2kg. RPL được chia ra làm 2 nhóm:

Nguyên phát: chưa lần nào sinh em bé sống trước đó.

Thứ phát: đã từng sinh tối thiểu thành công một em bé.

 Ảnh: corbis

Các nguyên nhân dẫn đến RPL

Di truyền: những bất thường nhiễm sắc thể của thai là nguyên nhân thường gặp nhất. Thực tế, khi xét nghiệm mô thai, các trường hợp ST trong 12 tuần lễ đầu, 60% có bất thường nhiễm sắc thể là nguyên nhân dẫn đến ST dưới 3 tháng tuổi.

Bất thường về giải phẫu: (các bộ phận cơ thể), chia làm 2 nhóm:

Bẩm sinh: do những loại dị dạng tử cung như: tử cung 1 sừng, tử cung 2 sừng, tử cung có vách ngăn… Tỷ lệ thai sống 5-28%.

Mắc phải: do u xơ tử cung (41%), dính lòng tử cung vì nạo thai (5%), hở eo tử cung…

Nội tiết: do thể vàng (hoàng thể) yếu, không sản xuất đủ progesterone nuôi dưỡng thai. Do mẹ bị bệnh đái tháo đường, bệnh huyết áp... chiếm 25% trường hợp ST trong 3 tháng đầu.

Bất đồng nhóm máu mẹ và con: bất đồng nhóm máu Rh giữa mẹ và con sẽ dẫn đến tình trạng miễn dịch chống lại yếu tố Rh trong máu con và gây ST liên tiếp.

Nhiễm trùng, nhiễm khuẩn: phụ nữ nhiễm trùng urealyticu, mycoplasma hominil, ureaplasma có nguy cơ ST liên tục.

Nhiễm khuẩn tử cung khiến cho trứng không làm tổ được, hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng ở người mẹ (virus cytomegalo, rubeole...) khi mang thai dẫn đến lây nhiễm cho thai. Nếu là do virus thì không có thuốc nào điều trị được.

Môi trường: rượu, thuốc lá… và một vài loại thuốc có liên quan đến RPL. Hóa trị liệu, tia xạ, khí gây mê, kim loại đã được chứng minh gây ST. Ngoài ra, nhiều loại thuốc dùng trong điều trị da liễu cũng là nguyên do.

Không rõ nguyên nhân: chiếm khoảng 50-60%.

Điều trị RPL

Phương pháp điều trị tùy thuộc vào nguyên nhân, có thể phẫu thuật, điều trị hormone... Tuy nhiên, việc xác định nguyên nhân ST tương đối khó khăn và không phải lúc nào cũng thành công. Do đó, bạn nên khám sức khỏe trước khi lập gia đình, đến bác sĩ để khám và theo dõi ngay từ khi chưa có thai. Cả hai vợ chồng sẽ được tư vấn về những điều cần làm và cần đề phòng. Nếu có dấu hiệu mang thai, bạn cũng cần được bác sĩ theo dõi, hỗ trợ sớm và chỉ định những thuốc cần thiết. Nên có con trước tuổi 35 để hạn chế những bất thường trong nhiễm sắc thể phôi thai.

 Hở eo tử cung gây ST

Với những người ST nhiều lần, bác sĩ khuyên tránh lao động nặng, cho uống thuốc giữ thai loại progesterone, thuốc giảm co và khâu vòng cổ tử cung để phòng ST. Bên cạnh đó, tốt nhất là nên hạn chế thuốc lá và rượu. Nếu côngviệc liên quan đến những chất độc hại, bạn phải đảm bảo điều kiện bảo hộ lao động tốt nhất. Tránh tiếp xúc trực tiếp với chất độc.

Sau mỗi lần ST, nên dành thời gian nghỉ ngơi (ít nhất là 6 tháng) để cơ quan sinh sản hồi phục rồi mới nên có thai lại. Thời gian nghỉ ngơi này chính là lúc kiểm tra tìm nguyên nhân ST. Hiện tại, vẫn còn khoảng 50% các trường hợp RPL không thể điều trị do không rõ nguyên nhân. Và phương pháp điều trị tốt nhất là hỗ trợ về mặt tâm lý.

Một số món ăn phòng chống RPL

Món cháo nếp, đẳng sâm, đỗ trọng

Nguyên liệu: đẳng sâm 5-10g, đỗ trọng 6-12g, gạo nếp 100g.

Cách chế biến: cho đẳng sâm và đỗ trọng vào túi vải buộc miệng, rồi cho vào nồi cùng gạo nếp nấu nhừ thành cháo là ăn được.

Cách dùng: mỗi ngày ăn 2-3 lần, ăn trong thời kỳ mang thai ở 3 tháng đầu.

Canh hạt sen, trần bì, tô cảnh

Nguyên liệu: hạt sen 60g, tô cảnh 10g, trần bì 6g.

Cách chế biến: hạt sen bóc vỏ bỏ tâm cho vào nồi, đổ nước đun chín đến 4-5 phần thì cho tô cảnh, trần bì vào, đun tiếp đến khi hạt sen chín kỹ là ăn được.

Cách dùng: ăn ngày 1-2 lần, trong suốt thời kỳ mang thai 3 tháng đầu.

Canh trứng gà ngải cứu

Nguyên liệu: lá ngải cứu 50g, trứng gà 2 quả, đường trắng một ít.

Cách chế biến: lá ngải cứu cho nước vừa đủ ăn nấu canh, sau đập 2 quả trứng gà bỏ vào đun chín, cho tiếp đường trắng vào khuấy tan.

Cách dùng: hằng ngày uống trước khi đi ngủ, trong suốt thời kỳ mang thai 3 tháng đầu.

Dùng nước áo ngô (vỏ bắp)

Nguyên liệu: áo ngô lượng vừa đủ. Cách chế biến và sử dụng: hằng ngày dùng áo ngô sắc lấy nước uống liên tục, cho tới gần ngày ST lần trước thì tăng lượng áo ngô lên gấp đôi và như vậy uống tới khi sinh mới thôi.

Canh gà mái, mực ống

Nguyên liệu: gà mái 1 con 500-700g, làm thịt rửa sạch, mực ống 1 con, gạo nếp 90-150g.

Cách chế biến: làm thịt gà rửa sạch, cùng mực ống cho vào hầm nhừ, lấy nước canh đặc cho gạo nếp từ 90-150g nấu nhừ thành cháo, nêm đủ gia vị mắm muối vừa miệng.

Cách dùng: sau khi mang thai ăn bất cứ lúc nào, ăn thường xuyên, lượng không hạn chế cho đến khi quá thời gian thường ST thì ngừng ăn. Có thể ăn thịt gà và khô mực cũng được.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh Vân)

Ai cần chẩn đoán trước và sau sinh?

Tôi có thai lần đầu được 2 tháng, có nghe mọi người nói hiện nay để phát hiện sớm dị tật của thai cần đi siêu âm màu để chẩn đoán trước sinh, người khác lại nói phải chẩn đoán sau sinh. Xin quý báo tư vấn để tôi được rõ về chẩn đoán trước sinh và sau sinh. Ai cần làm xét nghiệm này?

Phạm Thị Hoa(Lâm Đồng)

Hiện nay nhờ những tiến bộ y học như siêu âm, sinh hóa máu mà rất nhiều bệnh tật được chẩn đoán sớm trong đó có chẩn đoán sớm về các di tật của thai nhi. Chẩn đoán trước sinh là một chẩn đoán sớm từ thời kỳ bào thai nhờ siêu âm hay xét nghiệm nước ối. Thông qua siêu âm đa chiều người ta có thể phát hiện được những dị tật như thai vô sọ, thai bị bệnh down, các dị tật ống thần kinh, dị tật tim, từ đó tư vấn cách điều trị sớm hoặc cần thiết nên phá thai. Còn chẩn đoán sau sinh là sau khi đẻ ra trẻ được lấy máu ở gót chân để làm xét nghiệm. Xét nghiệm sàng lọc sơ sinh này sẽ giúp chẩn đoán sớm các trường hợp như hạ đường huyết, bệnh về chuyển hóa như khuyết men G6PD để được điều trị kịp thời, nếu không trẻ sẽ tử vong. Hiện nay phần lớn các cơ sở khám chữa bệnh đã được trang bị máy siêu âm. Tuy nhiên không nhất thiết lần nào khám thai cũng phải làm những xét nghiệm này mà chỉ cần siêu âm đa chiều (màu) vào tuần thứ 12 đến 14 để kiểm tra độ dày da gây để xác định thai nhi bị bệnh doxn. Nếu có nghi ngờ thì bác sỹ sẽ hẹn siêu âm lại sau đó. Như vậy phụ nữ mang thai rất cần được chẩn đoán trước sinh và sau sinh. Đặc biệt những phụ nữ có nguy cơ như bị cúm, rubela, sởi, đái tháo đường, thừa cân, phụ nữ mang thai trên 35 tuổi... Những phụ nữ có tiền sử đẻ con dị tật nên được khám và tư vấn di truyền trước khi mang thai. Muốn thế chị em khi mang thai cần đăng ký khám thai định kỳ tại cơ sở y tế.          

Bác sĩ. Kim Anh

Kiêng cữ sau khi sinh?

Mùa hè, sau khi sinh, nhiều sản phụ vẫn kiêng tắm gội trong suốt cả tháng đầu vì sợ nếu tắm gội sớm sau này sẽ bị đau đầu và ngứa người hoặc kém chịu rét. Trong thời kỳ hậu sản, người phụ nữ còn mặc quần áo dài, đi tất, không bật quạt, phải nằm trong phòng kín vì sợ sau này sẽ bị lạnh chân tay khi mùa đông về, nằm ngủ khép chặt hai chân vào nhau để tử cung nhanh co bóp... những quan niệm trên chưa thật đúng thậm chí còn không tốt cho sức khoẻ bà mẹ.

 Ảnh minh họa.

Có nên kiêng tắm?

Sinh nở là một công việc nặng nhọc khiến người phụ nữ phải gắng sức và mất rất nhiều năng lượng. Sau khi sinh, cơ thể người mẹ ra nhiều mồ hôi, nên cần phải tắm gội cho sạch sẽ. Vào mùa hè trời nóng, mồ hôi ra nhiều, để lâu không tắm, cơ thể càng bẩn, càng dễ nhiễm khuẩn. Thông thường 3 hoặc 4 ngày sau sinh là có thể tắm được, không nên để một tháng. Tuy nhiên, cách tắm như thế nào là một vấn đề phải hết sức chú ý. Tắm nhanh và tắm "dội" là hai yêu cầu cơ bản. Tắm nhanh là thời gian tắm không nên lâu quá, từ 5 đến 10 phút là vừa. Còn tắm "dội" nghĩa là dùng vòi hoa sen hoặc dùng gáo múc nước, dội từ trên xuống dưới, không nên tắm trong bồn tắm hay trong chậu. Ngoài ra cần phải tắm ở nơi kín đáo, tránh gió lùa, nên tắm nước ấm, kể cả mùa hè hay mùa đông, khi tắm xong phải lau khô nhanh. Gội đầu cũng thế, không nên kiêng gội đầu đến một tháng, song, phải gội nhanh và lau đầu cho nhanh khô.

... dùng nước muối để vệ sinh?

Sau khi sinh, tử cung co bóp để đẩy sản dịch ra ngoài. Sản dịch thực chất là màng rau, đồng thời cũng là những dịch và niêm mạc của cổ tử cung và âm đạo bong ra. Do vậy, vệ sinh sau sinh hết sức quan trọng. Nên vệ sinh ít nhất là 3 lần vào sáng, chiều và tối trước khi đi ngủ, nếu sản dịch ra nhiều nên vệ sinh nhiều lần hơn. Các phương tiện vệ sinh phải sạch, tốt nhất nên vệ sinh bằng nước sôi để nguội hoặc ấm. Không nhất thiết phải dùng dung dịch sát khuẩn nhưng nước vệ sinh phải là nước sạch. Không nên dùng nước muối loãng để vệ sinh vì tinh thể muối sẽ hút nước và làm vùng sinh dục ngoài của người phụ nữ luôn bị ẩm ướt, tạo điều kiện tốt cho vi khuẩn phát triển.

... và nằm gác chéo chân?

Có hai trục trặc phổ biến thời kỳ hậu sản là bế sản dịch và đờ tử cung. Bế sản dịch là sản dịch không thoát ra ngoài được, hiện tượng này thường gặp ở người sinh con so. Triệu chứng là không có máu ở khăn vệ sinh, đau bụng, sờ vào bụng thấy cứng, có cục. Ngược lại với bế sản dịch, là hiện tượng sản dịch chảy nhiều. Sản dịch chảy nhiều có thể do đờ tử cung - đờ tử cung là tử cung không co bóp được, dẫn đến triệu chứng máu chảy nhiều. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc sản dịch chảy nhiều có thể do rách tử cung hoặc rách âm đạo mà không được phát hiện hoặc khâu không tốt. Trong trường hợp này, sau sinh 3 đến 4 ngày mà máu vẫn chảy nhiều, sờ vào bụng dưới thấy mềm, ấn vào một cái thấy máu chảy ra thì khả năng đờ tử cung là rất lớn nhất là khi thấy sản phụ thiếp đi, hạ đường huyết thì phải đưa ngay sản phụ đến cơ sở y tế hoặc gọi bác sĩ. Một sai lầm phổ biến nhiều người mắc phải thời kỳ này, đó là nằm gác chéo hai chân lên nhau. Nhiều người cho rằng nằm như thế âm đạo sẽ khép lại, nhưng thực chất nằm gác chéo chân là không tốt vì sẽ ngăn cản sản dịch thoát ra ngoài.    

Bác sĩ  Hạnh Chung

Đề phòng say nắng, say nóng mùa hè

Nếu bệnh nhân không được xử trí kịp thời có thể để lại các di chứng thần kinh không hồi phục và thậm chí gây tử vong.

Những nguyên nhân

Say nắng: tình trạng thân nhiệt tăng cao quá mức (thường trên 400C) xẩy ra do cơ thể bị tăng thân nhiệt sau một thời gian dài bởi cơ thể khi lao động hoặc đi quá lâu ngoài trời nắng, hoặc tắm biển, sông, ao hồ khi trời nắng gắt, nhiều tia nắng mặt trời (tia cực tím) sẽ chiếu thẳng vào vùng cổ gáy (tương ứng với vùng hành tủy của não bộ). Dưới tác dụng liên tục của ánh sáng mặt trời gay gắt, trung tâm điều hòa thân nhiệt cơ thể sẽ bị chấn động làm rối loạn điều hòa thân nhiệt cùng với hiện tượng mất nước cấp của cơ thể, trong khi cơ thể chưa thích nghi kịp và cơ thể bị mất nước, làm tổn thương hệ thống thần kinh kiểm soát thân nhiệt. Say nắng thường biểu hiện bệnh nặng ngay từ đầu, có thể có nhiều dấu hiệu thần kinh sớm, rất rõ tổn thương có thể hồi phục hoặc không hồi phục. Một số trường hợp có thể có tụ máu dưới màng cứng và trong não.

Say nóng: tình trạng mất nước toàn thể kèm theo rối loạn điều hòa thân nhiệt, rối loạn vận mạch mà bản chất là do trung tâm điều hòa thân nhiệt không thích ứng với điều kiện thời tiết xung quanh. Say nóng thường do phải làm việc trong điều kiện môi trường nhiệt độ cao nóng bức (hầm lò, trong phòng kín...), hoặc hoạt động thể lực quá sức ở người trẻ (chơi các môn thể thao cường độ cao, làm việc nặng nhọc kéo dài)... dưới trời oi bức sẽ dẫn đến hiện tượng lượng nhiệt sinh ra và lượng nhiệt hấp thu lớn hơn nhiều so với lượng nhiệt cơ thể tỏa ra môi trường xung quanh. Do đó gây nên tình trạng mất nước trầm trọng của cơ thể là chủ yếu.

Đề phòng say nắng, say nóng mùa hèĐặc điểm chung là cả say nóng và say nắng đều dẫn đến một tình trạng tăng thân nhiệt một cách  đột ngột

Biểu hiện

Các biểu hiện của say nắng tùy theo mức độ tăng thân nhiệt và thời gian ở ngoài nắng. Một đặc điểm chung là cả say nóng và say nắng đều dẫn đến một tình trạng tăng thân nhiệt một cách đột ngột trong khi đó không ra mồ hôi. Khi thân nhiệt tăng sẽ dẫn tới tăng quá trình đào thải mồ hôi làm cơ thể mất một lượng nước và chất điện giải (muối) lớn, hiện tượng này nếu không được bù kịp thời sẽ dẫn tới hậu quả giảm khối lượng tuần hoàn gây trụy tim mạch, rối loạn chất điện giải nặng có thể gây tử vong. Một yếu tố nguy cơ nữa khi nhiệt độ cơ thể tăng cao sẽ gây rối loạn hoạt động chức năng của rất nhiều cơ quan như: tim mạch, hô hấp, thần kinh...

Lời khuyên của thầy thuốcKhông làm việc quá lâu hoặc đi lại hoặc chơi thể thao trong môi trường nóng bức cũng như tránh các hoạt động thể lực quá sức. Sau mỗi một giờ làm việc ngoài trời nắng nóng hoặc trong hầm lò, nhà máy nên nghỉ giải lao khoảng 1 - 15 phút. Luôn trang bị đầy đủ thiết bị chống nắng khi lao động, đi lại, làm việc ngoài trời nắng như: quần áo bảo hộ lao động, mũ, nón, kính… (nên dùng áo cotton dài tay giúp hấp thụ mồ hôi của cơ thể trong khi vẫn giữ cơ thể được mát mẻ và nên mặc quần áo sáng màu để cơ thể hấp thụ nhiệt ít nhất). Cần mang theo đủ nước uống trước khi ra ngoài trời trong thời tiết nắng nóng để bù nước kịp thời. Với trẻ em và người cao tuổi, trong những ngày nắng nóng cần hạn chế đến mức tối đa ra nắng.

 

Vì vậy, người bị say nắng thường thấy da nóng và khô, mệt lả, đau đầu, khó ở, đỏ mặt, nôn mửa và tiêu chảy. Một số triệu chứng khác có thể xảy ra như giảm khả năng đánh giá, cử chỉ kỳ cục, ảo giác, thay đổi ý thức, lẫn lộn, mất định hướng và hôn mê, co giật.

Các biểu hiện của say nắng, say nóng có thể tùy theo mức độ tăng thân nhiệt và thời gian. Có thể từ những biểu hiện nhẹ ban đầu là tăng nhịp tim, tăng nhịp thở, hồi hộp trống ngực rồi đến trạng thái mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, tay chân rã rời, kích thích nhẹ, khó thở tăng dần, chuột rút... và cuối cùng là ngất, hôn mê, trụy tim mạch, tử vong.

Với thể nặng, thân nhiệt tăng cao (trên 400C), nạn nhân thường mất nước nghiêm trọng, da nóng (sờ vào sẽ rất đau), khô, mệt lả, đau đầu, chóng mặt, khó chịu, đỏ mặt, nôn mửa và tiêu chảy. Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của sốc nhiệt là thân nhiệt đột ngột tăng cao. Đồng tử thu nhỏ lại. Nạn nhân có thể bị ngất xỉu, co giật, lú lẫn, mất định hướng, đôi khi mất ý thức, bất tỉnh hoặc đột quỵ, hôn mê.

Hậu quả

Nếu để xảy ra say nắng, say nóng sẽ rất nguy hiểm, có thể giết hoặc gây tổn thương cho tế bào thần kinh trung ương (tế bào não) và các cơ quan nội tạng khác trong cơ thể. Bởi vì, say nắng, say nóng bao giờ cũng dẫn đến một tình trạng tăng cao thân nhiệt. Khi thân nhiệt tăng cao sẽ dẫn tới tăng quá trình đào thải mồ hôi làm cơ thể mất một lượng nước lớn. Hiện tượng này sẽ dẫn tới hậu quả làm giảm khối lượng tuần hoàn gây trụy tim mạch, rối loạn chất điện giải nặng và có thể gây tử vong, nếu cấp cứu không lịp thời. Một yếu tố nguy cơ khác là khi thân nhiệt tăng cao sẽ gây rối loạn hoạt động chức năng của rất nhiều cơ quan như: tim mạch, hô hấp, thần kinh...

Xử trí

Trước mọi trường hợp bị say nắng, say nóng, cần sơ cứu ngay lập tức khi chưa có sự hỗ trợ của nhân viên y tế, đưa ngay nạn nhân vào chỗ mát, thoáng gió, cởi bỏ bớt quần áo, nhanh chóng lấy nước đổ lên đầu, vẩy nước lên người nạn nhân hoặc lấy khăn thấm nước mát phủ lên người mục đích để giảm thân nhiệt. Nếu cơ thể nóng bừng và không thể đổ mồ hôi, lúc đó có thể nạn nhân đang bị mất nước, cần làm mát cơ thể bằng uống nước mát có pha muối là tốt nhất hoặc trực tiếp đổ nước lên người. Nếu có điều kiện nên chườm mát (bằng khăn sạch nhúng nước mát) ở những vị trí có động mạch lớn đi gần ngoài da như: hai vùng nách, hai vùng bẹn, cổ nhằm nhanh chóng làm giảm thân nhiệt cho nạn nhân. Đây là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi say nắng, say nóng nguyên nhân là do thân nhiệt tăng và mất nước. Lưu ý không nên dùng nước đá để hạ nhiệt, bởi vì làm như vậy nhiệt không hạ nhưng có thể làm cho tim đập nhanh, thậm chí đột qụy.

Nếu nạn nhân không uống được nước hoặc nôn liên tục, sốt tăng liên tục, kèm các triệu chứng đau bụng, đau ngực, khó thở hoặc bất tỉnh cần nhanh chóng kêu gọi mọi người hỗ trợ, gọi xe để nhanh chóng chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Trong quá trình vận chuyển vẫn thường xuyên chườm mát cho nạn nhân.

TS.BS. BÙI MAI HƯƠNG

Dị ứng hải sản, từ nhẹ đến tối cấp

Tuy vậy, dị ứng hải sản cũng chỉ xảy ra trên một số ít người nhạy cảm với loại thực phẩm này mà thôi.

Tại sao hải sản lại gây dị ứng?

Nguyên nhân gây dị ứng do hải sản có 3 loại: thứ nhất là do hải sản có chứa nhiều loại protein bổ dưỡng nhưng cũng có những protein “lạ”, khi ăn vào cơ thể sẽ là những kháng nguyên thực sự. Những kháng nguyên này sẽ kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể gây dị ứng. Thứ hai là một số protein có trong hải sản chỉ đóng vai trò là một “bán kháng nguyên - hapten” hay kháng nguyên không đầy đủ. Loại này khi vào cơ thể sẽ kết hợp với nhóm “quyết định kháng nguyên” sẵn có gây nên dị ứng. Nguyên nhân thứ ba là do một số hải sản có chứa nhiều chất histamin. Chất này khi vào cơ thể cũng gây nên các triệu chứng như dị ứng.

Như vậy, các protein trong hải sản có thể là kháng nguyên, bán kháng nguyên đối với người bị dị ứng hải sản mà lại là những protein bình thường đối với tuyệt đại đa số những người không bị dị ứng hải sản. Còn hiện tượng hải sản có nồng độ histamin cao thì có thể gây triệu chứng cho tất cả mọi người ăn phải (hiện tượng ngộ độc histamin).

Đối với dị ứng hải sản, các phản ứng dị ứng (đặc biệt là sốc phản vệ) không phụ thuộc số lượng ăn vào nhiều hay ít mà phụ thuộc vào độ mẫn cảm của từng cá thể.

Hải sản chứa nhiều protein bổ dưỡng và các histamin nên dễ gây dị ứng.

Hải sản chứa nhiều protein bổ dưỡng và các histamin nên dễ gây dị ứng.

Dị ứng hải sản: từ mẩn ngứa đến những triệu chứng tối cấp

Dị ứng hải sản biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau sau khi ăn hải sản. Hàng đầu là các biểu hiện ngoài da như đỏ da, mẩn ngứa, nổi mày đay. Các biểu hiện thần kinh như đau đầu, chóng mặt, ngất, hôn mê. Các tổn thương niêm mạc như phù nề niêm mạc mắt, mũi, miệng. Các triệu chứng hô hấp như hắt hơi, ngạt, chảy nước mũi, khó thở kiểu hen, co thắt thanh quản. Các biểu hiện đường tiêu hóa như đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa. Đặc biệt là triệu chứng sốc phản vệ khi có trụy tim mạch với các triệu chứng sốc như da tái lạnh, mạch nhanh nhỏ, nổi vân tím, tụt huyết áp... Các trường hợp tối cấp như co thắt thanh quản, sốc phản vệ có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không được cấp cứu kịp thời.

Xử trí thế nào?

Xử trí dị ứng hải sản bao gồm cho các thuốc chống dị ứng như kháng histamin (clarytin), corticoid (methyprednisolon) đường uống hoặc tiêm truyền đường tĩnh mạch. Có thể cho thêm vitamin C và các thuốc chống viêm đường uống khác. Khi có sốc phản vệ xảy ra, thuốc đầu tiên được chọn là adrenalin, sử dụng đúng theo phác đồ cấp cứu như bất cứ một sốc phản vệ nào khác. Adreanin có thể khí dung, tiêm dưới da, tiêm, truyền tĩnh mạch tùy tình trạng bệnh nhân.

Dị ứng hải sản từ nhẹ là đỏ da, mẩn ngứa, nổi mày đay rồi phù nề niêm mạc mắt, mũi, miệng; nặng là triệu chứng sốc phản vệ khi có trụy tim mạch.

Dị ứng hải sản từ nhẹ là đỏ da, mẩn ngứa, nổi mày đay rồi phù nề niêm mạc mắt, mũi, miệng; nặng là triệu chứng sốc phản vệ khi có trụy tim mạch.

Lời khuyên của thầy thuốc

Nói chung, trừ trường hợp dị ứng do ăn phải loại hản sản có chứa nhiều histamin, tất cả những người đã được xác định là dị ứng với hải sản nên tránh ăn uống, tiếp xúc với những loại thực phẩm có nguồn gốc từ hải sản. Hết sức chú ý khi đi ăn nhà hàng, nên xem kỹ thực đơn, thành phần, nguồn gốc thức ăn để tránh ăn nhầm hải sản. Nên tránh xa khu vực chế biến hải sản vì khi hít phải hơi thức ăn loại này cũng có thể bị dị ứng. Thậm chí dị ứng cũng xảy ra nếu dùng chung bát đĩa… đựng hải sản của người khác. Không nên ăn các loại hải sản đã chết hoặc chế biến không đảm bảo do loại thức ăn này có thể chứa nhiều histamin do nhiễm khuẩn. Cuối cùng, một người bị dị ứng cua biển cũng rất nên thận trọng khi ăn các đồ biển khác như ghẹ, mực, tôm, sò… vì có thể bị dị ứng chéo, không kém phần nguy hiểm.

PGS.TS. Vũ Đức Định

Vô sinh không chỉ riêng ở nữ giới

Khi bị vô sinh (VS), nhiều người thường đổ lỗi cho người mẹ, thực tế có đúng vậy không? Theo nhà triết học vĩ đại aristote đã nói: “Những người đàn ông bệnh tật, nghiện rượu và chơi bời không thể có con”. Với câu nói trên và những tiến bộ của y học ngày nay thì nguyên nhân dẫn đến VS thì không chỉ riêng ai.

Thế nào là VS

Theo quan niệm của các nhà y học cho rằng, VS là tình trạng vợ chồng chung sống với nhau không có thai trong thời gian 2 năm mà không áp dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào. Nhưng ngày nay, theo Tổ chức Y tế thế giới, thời gian này rút ngắn chỉ còn 1 năm. VS được chia làm 2 loại là VS nguyên phát, viết tắt là VS1, nghĩa là chưa có thai lần nào và VS thứ phát (VS2), tức là đã từng có thai ít nhất 1 lần. Ngày nay, nhờ những tiến bộ của khoa học, nguyên nhân gây VS đã lần lượt được làm sáng tỏ, trong đó các nhà khoa học thấy rằng tỷ lệ VS giữa nam và nữ ngang nhau, tỷ lệ đó chiếm khoảng 40%, còn lại 20% là nguyên nhân kết hợp VS do cả vợ lẫn chồng. Có một nghiên cứu khác, các nhà khoa học thấy rằng tỉ lệ gây VS ở nam giới lên đến 45%.

 Ảnh minh họa (Ảnh: corbis)

VS do nữ

Ở nữ giới, muốn có thai, thì tinh trùng phải qua được âm đạo, đi đến gặp được trứng và thụ thụ thai ở 1/3 ngoài vòi trứng, trở thành trứng thụ tinh di chuyển vào buồng tử cung, sau đó trứng sẽ phát triển lên hình thành bào thai. Một trong các quá trình đó hoặc một vài quá trình, gặp trắc trở, thất bại, sẽ gây VS.

Về nguyên nhân gây VS ở nữ giới, thì có rất nhiều, nếu hiểu rõ, có thể đề phòng được. Nguyên nhân thường gặp VS ở nữ giới là có bất thường về giải phẫu cơ quan sinh dục như: hẹp âm hộ-âm đạo hay chỉ có một phần âm đạo, âm đạo có vách ngăn, màng trinh dày, kênh cổ tử cung hẹp, rối loạn chất nhầy cổ tử cung ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng, tử cung kém phát triển, dị dạng tử cung đôi, dầy dính buồng tử cung do nạo hút thai, viêm nhiễm dày dính làm tắc tai vòi, lạc nội mạc tử cung. Nguyên nhân do không có buồng trứng, buồng trứng kém phát triển, suy giảm hoàng thể, không phóng noãn do dùng thuốc tránh thai kéo dài, hội chứng Turner…

Ngoài ra, còn một số nguyên nhân xảy ra trong sinh hoạt hằng ngày như: do sang chấn tinh thần, lãnh cảm, sợ hãi quá mức nên từ chối sinh hoạt tình dục, suy dinh dưỡng làm rối loạn sản xuất hormone, hút thuốc, uống nhiều rượu, lập gia đình trễ, thường xuyên sử dụng thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, thừa cân hoặc béo phì, hay quá gầy, tập luyện căng thẳng, mắc bệnh lây qua đường tình dục như bệnh chlamydia…

VS do nam

Nguyên nhân từ phía nam giới, thường nhất là do khiếm khuyết từ tinh trùng như: không có tinh trùng, tinh trùng quá ít, tinh trùng di động yếu và tinh trùng dị dạng; xuất tinh ngược dòng, tinh trùng chảy ngược vào bàng quang, sau đó được đi tiểu ra ngoài. Nguyên nhân gây bệnh lý ở tinh hoàn, tinh hoàn teo nhỏ thể tích nhỏ hơn 3ml, tinh hoàn lạc chỗ, teo tinh hoàn do bệnh quai bị, do chấn thương, bệnh lây truyền qua đuờng tình dục có thể làm viêm tắc ống dẫn tinh, thường xuyên nghiện rượu, thuốc lá…

Ngoài nguyên nhân VS do vợ hoặc chồng, còn có một số trường hợp, cả hai vợ chồng đều bình thường về phương diện sinh sản, nhưng tinh trùng người chồng không thích hợp với chất nhầy ở cổ tử cung người vợ, làm cho tinh trùng bị chết và không đi vào đường sinh dục nữ được. Trường hợp này thường được chẩn đoán bằng xét nghiệm sau giao hợp, lấy chất nhầy ở cổ tử cung người vợ vài giờ sau giao hợp, để xem sự di động và khả năng sống của tinh trùng. Hoặc có trường hợp hệ miễn dịch người phụ nữ tạo ra các kháng thể để diệt tinh trùng theo cơ chế đào thải vật lạ.

Vô sinh nam do giảm số lượng tinh trùng.

Phòng ngừa VS

Về phòng VS, vợ chồng cũng có thể thực hiện được một số nguyên nhân.

Đối với nữ giới như giữ vệ sinh bộ phận sinh dục hàng ngày trong thời gian có kinh nguyệt, trước và sau khi giao hợp để tránh bị viêm nhiễm bộ phận sinh dục, bởi đây chính là nguyên nhân chính làm tắc vòi tử cung. Tránh để bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nếu có bị mắc các bệnh viêm nhiễm cần điều trị thật sớm, tích cực và triệt để. Nếu có các biểu hiện của việc rối loạn kinh nguyệt, nhất là tình trạng rong kinh kéo dài thì điều trị thật sớm và triệt để, bởi các rối loạn này có thể dẫn đến rối loạn trong quá trình phóng noãn. Tránh hút thuốc, uống rượu bia.

Đối với nam, tránh nghiện rượu bia, thuốc lá, đặc biệt là thuốc lá vì có ảnh hưởng xấu đến khả năng mang thai và trong suốt thai kỳ. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và thấy rằng, hút thuốc lá có hại cho sự hình thành giao tử, có thể bị tổn thương bởi khói thuốc lá, các nhiễm sắc thể mà cả gen di truyền ADN gây ra tổn thương cho tế bào mầm có thể là hậu quả của tiếp xúc với khói thuốc lá. Nam giới hút nhiều thuốc lá sẽ làm giảm số lượng tinh trùng và gia tăng tỉ lệ tinh trùng chết và bất thường hình dạng, chức năng. Mặc dù, tác động của thuốc lá lên khả năng sinh sản của nam giới và tác hại của hút thuốc lá thụ động lên khả năng sinh sản của nữ giới vẫn còn bàn cãi, thì việc hút thuốc lá nên được quan tâm như yếu tố nguy cơ gây VS.

BS. CKI. Trần Quốc Long

(BS. CKI. Trần Quốc Long)

Viêm thận

Triệu chứng bệnh viêm thận - tiết niệu rất thất thường, có khi rất kín đáo nên sản phụ không biết. Bệnh được phát hiện qua một xét nghiệm thông thường. Có khi chỉ là một suy giảm chức năng đã phải chú ý tới tổn thương nhu mô thận. Những biến đổi chức năng của đường tiết niệu dưới rất quan trọng vì viêm nhiễm thường xuất phát từ đây. Mỗi khi sản phụ bị sốt chưa rõ nguyên nhân, ta phải chú ý ngay tới viêm thận - tiết niệu.

Nếu sốt kèm theo rét run, đau lưng và đái buốt thì sản phụ cần đi khám để được điều trị kịp thời. Bệnh viêm bể thận - thận. sẽ khỏi nếu được điều trị sớm kể cả khi viêm nhiễm chưa thật rõ ràng hoặc còn kín đáo. Nếu không điều trị thì tình trạng thai nghén sẽ làm tăng thêm các nguy cơ. Nếu bệnh tái diễn và vi khuẩn cũ tồn tại thì phải nghĩ tới một chướng ngại vật trên đường tiết niệu. Phải siêu âm hoặc chụp X-quang để xác định là u, sỏi hoặc chít hẹp. Những xét nghiệm này còn phải làm lại sau sinh từ 6 - 8 tuần, khi các đường bài xuất đã trở lại trạng thái bình thường.

Ảnh: Gettyimages.com 

Ở phụ nữ mang thai, bệnh viêm thận - tiết niệu sẽ nặng hơn vì các biến đổi sinh lý ở thận và đường tiết niệu của sản phụ đã làm tiên lượng của bệnh xấu đi. Các đường bài xuất nước tiểu bị giãn to do tác dụng của progesteron (nội tiết tố nữ) hoặc do sự chèn ép cơ học của tử cung ngày càng to. Các nhu động của bể thận, niệu quản bị suy giảm nên lưu thông nước tiểu kém. Trong nước tiểu sản phụ, lượng đường thường tăng cao kể cả khi không có bệnh đái tháo đường. Kali huyết của sản phụ hạ thấp do nôn mửa hoặc uống thuốc lợi tiểu. Chính những thay đổi nội tiết trong những ngày đầu mang thai đã làm viêm nhiễm phát sinh và phát triển, ngay cả khi chưa có những biến đổi về giải phẫu của đường bài xuất nước tiểu. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm tăng thêm nguy cơ cho thai nghén. Nếu trước đây sản phụ đã từng bị viêm cầu thận, sỏi tiết niệu hoặc một dị tật bẩm sinh ở đường bài xuất hoặc bị bệnh đái tháo đường thì chắc chắn nguy cơ sẽ lớn hơn nhiều.

Viêm thận - tiết niệu phải được điều trị bằng thuốc kháng sinh. Nhưng dùng kháng sinh gì, trong bao lâu... nhất thiết phải do các thầy thuốc chuyên khoa chỉ định. Lưu ý, không được thông bàng quang cho sản phụ vì dễ gây ra viêm bể thận - thận ngược dòng kéo dài, rất khó điều trị.

Bác sĩ Tống Hồng Nhung

Mang thai, vận động thế nào là hợp lý?

Tôi có thai được 4 tháng, đã đỡ nghén nhưng vẫn rất mệt mỏi. Mọi người trong gia đình luôn bắt tôi phải cố gắng đi bộ mỗi tối để sau dễ sinh con. Xin hỏi bác sĩ có đúng vậy không, nếu có thì nên tập luyện như thế nào?   

Vương Thanh Hà(Hưng Yên)

 Thai phụ cần luyện tập phù hợp với sức khỏe.

 

Khi có thai, cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi do vậy họ phải có một chế độ dinh dưỡng, tập luyện phù hợp. Thực tế tại các bệnh viện phụ sản cho thấy phụ nữ mang thai đến lúc chuyển dạ thường ít cơn co, do vậy phải sử dụng thuốc kích thích hoặc chỉ định can thiệp cho cuộc đẻ. Nguyên nhân chủ yếu là lười vận động. Tuy nhiên mang thai phải vận động như thế nào là hợp lý. Đối với những phụ nữ trẻ, khỏe mạnh bình thường, không có các tiền sử sản khoa xấu (sảy thai, đẻ non, thai chết lưu...) thì mọi sinh hoạt hằng ngày vẫn diễn ra bình thường, chỉ tránh khuân vác những vật dụng nặng, những việc làm gắng sức. 3 tháng đầu của thai kỳ nên vận động nhẹ nhàng hơn vì nguy cơ sảy thai cao, nên vận động nhiều hơn (đi bộ hằng ngày là hình thức phù hợp nhất) vào 3 tháng cuối. Những trường hợp có tiền sử sảy thai, hay có dọa sảy thai thì không nên vận động nhiều. Nếu chị mới có thai 4 tháng và chưa qua hẳn mệt mỏi của giai đoạn nghén thì cần được chăm sóc bồi dưỡng tốt hơn sau đó nên vận động phù hợp với sức khỏe và không nên tập luyện quá sức.

ThS. Nguyễn  Cảnh Chương

Ái kỷ

Người bệnh chỉ quan tâm đến bản thân, tự thổi phồng bản thân, muốn người khác ngưỡng mộ và tôn trọng mình nhưng lại thiếu đồng cảm với người khác. Bệnh có thể ảnh hưởng đến cuộc sống nếu không được điều trị kịp thời.

Rối loạn nhân cách ái kỷ bao gồm hành vi kiêu ngạo, thiếu sự đồng cảm với mọi người và có nhu cầu nhận được mọi ngưỡng mộ - thể hiện rõ trong công việc và những mối quan hệ. Những người ái kỷ thường được mô tả là những người tự phụ, luôn xem mình là trung tâm, lôi cuốn và luôn đòi hỏi. Những người ái kỷ có tính cách thất thường và luôn tin rằng mình xứng đáng được đối xử đặc biệt. Những rối loạn nhân cách có liên quan gồm: chống đối xã hội, ranh giới, kịch tính. Tự kiêu là mức độ nhẹ hơn của rối loạn nhân cách ái kỷ. Tự kiêu có những biểu hiện như sự tự phụ, sự lôi cuốn, ích kỷ, thích kiểm soát, một tình yêu huyễn hoặc với bản thân trong gương.

Triệu chứng thường gặp

Bệnh ái kỷ thường xuất hiện ở nam giới nhiều hơn nữ giới và bắt đầu ở tuổi thiếu niên hoặc trưởng thành. Người bị bệnh ái kỷ thường có các triệu chứng: Phản ứng gay gắt khi nhận được những lời nhận xét hoặc cảm thấy tức giận, xấu hổ khi bị ai đó nhắc tới hoặc góp ý. Lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình. Thổi phồng tài năng và khả năng của mình. Phóng đại tầm quan trọng của bản thân. Luôn mong muốn mọi người chú ý và ngưỡng mộ mình. Phớt lờ hoặc không có sự đồng cảm với người khác. Hay ảo tưởng về sự thành công của bản thân và nhạy cảm quá mức với những thất bại của mình. Cùn mòn về cảm xúc với mọi người, thiếu kĩ năng đồng cảm. Ám ảnh về bản thân. Theo đuổi những mục đích ích kỷ.

Những người nhân cách ái kỷ thường có hình ảnh bản thân cao. Tuy nhiên, sự yêu mến bản thân này rất khác biệt. Những người có hình ảnh bản thân cao thường rất khiêm tốn, trong khi đó những người ái kỷ lại tự cao tự đại. Những nghiên cứu mới nhất đưa ra những bằng chứng cho rằng người ái kỷ có thể có cả sự an toàn hoặc phô trương cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhìn bên ngoài có thể kết luận rằng nhân cách ái kỷ sẽ có khuynh hướng trở nên phòng vệ mỗi khi hình ảnh bản thân của họ bị đe dọa. Người ái kỷ cũng có thể rất hung hăng. Lối sống đôi lúc nguy hiểm, nhìn chung phản ánh nhu cầu tìm kiếm cảm xúc và xung năng (ví dụ: quan hệ tình dục phóng túng, chi tiêu táo bạo).

Đồng thời, người ái kỷ thường có vẻ ngoài rất lôi cuốn và thu hút ánh nhìn vậy nên họ có lợi thế trong lần gặp gỡ đầu tiên. Tuy vậy, về lâu dài thì người ái kỷ sẽ dần trở nên u phiền đặc biệt là về phương diện xã hội (khó khăn trong mối quan hệ lâu dài). Thông thường sự xuống dốc của người ái kỷ thường diễn ra trước tuổi 30.

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân của bệnh ái kỷ chưa thật sự rõ ràng. Có nhiều nghiên cứu và giả thiết cho rằng gene di truyền học đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách ái kỷ (khoảng 50%). Nhưng ảnh hưởng của môi trường cũng làm nên nhân cách ái kỷ. Yếu tố văn hóa cũng có thể dẫn tới nhân cách ái kỷ (ví dụ như xem những vai diễn ái kỷ trên TV, môi trường thù địch và chiến tranh). Các vấn đề về tâm sinh lý cũng có thể là một nguyên nhân gây ra rối loạn nhân cách ái kỷ. Trường hợp bị ngược đãi, bỏ bê, nuông chiều và khen ngợi quá nhiều... cũng dễ dẫn đến ái kỷ.

Các yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc rối loạn nhân cách ái kỷ là: Bố mẹ đánh giá tầm quan trọng của con quá mức. Chỉ trích khi con sợ hãi và thất bại.

Căn bệnh khó điều trị

Trên thực tế, bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ là một trong những bệnh tâm lý có tỷ lệ người mắc bệnh không cao. Thế nhưng bệnh nhân ái kỷ đang dần tăng. Cũng giống như các bệnh rối loạn nhân cách khác, rối loạn nhân cách ái kỷ rất khó chữa. Một phần là vì người mắc bệnh không cho rằng họ bị bệnh và vì thế nên họ không tự đi tìm sự giúp đỡ từ các chuyên gia. Phương thức chữa bệnh phổ biến nhất là dựa vào nói chuyện và khám phá tiềm thức người bệnh, hướng dẫn họ suy nghĩ tích cực hơn, tốt hơn. Lâu dài, các chuyên gia sẽ giúp người bệnh có cái nhìn sâu vào bên trong suy nghĩ của họ, giải đáp tại sao họ lại có thái độ và hành vi như thế với hy vọng rằng điều này sẽ giúp cho họ cải thiện hành vi của mình. Không có loại thuốc nào có thể chữa rối loạn nhân cách ái kỷ.

Liệu pháp tâm lý cá nhân là cách điều trị tốt nhất được bác sĩ tâm thần và bác sĩ tâm lý sử dụng. Bố mẹ hoặc người thân trong gia đình nên trò chuyện hàng ngày với người bệnh để mối quan hệ thân mật hơn. Ngoài ra, còn có một phương pháp khác gọi là phương pháp nhận thức hành vi. Phương pháp này giúp phát hiện ra niềm tin và hành vi không lành mạnh đồng thời thay thế bằng những hành động tích cực hơn. Bên cạnh đó, thuốc chống trầm cảm cũng đôi khi được dùng ở bệnh nhân bị trầm cảm hoặc lo âu.

Ngoài ra người bệnh ái kỷ cần áp dụng những thói quen sinh hoạt giúp hạn chế diễn tiến của bệnh ái kỷ như: Có chế độ sinh hoạt phù hợp, giảm bớt các tương tác không cần thiết trên mạng xã hội. Cố gắng giảm căng thẳng bằng cách thiền, tập yoga hoặc thái cực quyền.

Luôn cởi mở, hòa đồng với mọi người. Tìm hiểu về bệnh lý này để sớm nhận ra các dấu hiệu hoặc triệu chứng mà mình đang có, từ đó có những cách điều trị phù hợp. Đến cơ sở y tế nếu bạn nghĩ đến việc làm hại bản thân hoặc người khác.

BS. TÙNG ANH

8 giờ căng thẳng cắt 23kg khối u trên cơ thể thanh niên đi như bò trên đường

 

Khối u to khiến bệnh nhân phải cúi hết người để đi lại gần như bò trên đường

Khoa Phẫu thuật Hàm mặt - Tạo hình - Thẩm mỹ BV Việt Đức đã tiếp nhận bệnh nhân Nguyễn Văn S. 34 tuổi, quê ở N.A. nhập viện với 1 khối u khổng lồ ước chừng 40-45 kg to hơn cả phần cơ thể còn lại của bệnh nhân. Khối u chiếm toàn bộ phần lưng mông và gần như toàn bộ đùi và cẳng chân bên trái của bệnh nhân. Khối u to đến nỗi bệnh nhân không thể đi lại bình thường mà phải cúi hết người ra phía trước gần như là bò trên đường mới đủ đối trọng với phần khối u như muốn kéo bệnh nhân ngã ngửa ra sau

Toàn bộ hình ảnh khối u khoảng 40-45kg trú ngụ trên cơ thể bệnh nhân S.                                                  Ảnh BVCC

Thông tin từ gia đình S. cho biết S là con thứ hai trong một gia đình hộ nghèo ở một huyện miền núi của N.A. Cậu bé lớn lên cùng với khối u vùng lưng và đùi, khối u phát triển theo tuổi và ngày càng to, chân to như chân voi và khối u ở lưng giống như cõng thêm một người nữa trên lưng. Nhà nghèo, gia đình không đủ tiền chạy chữa cho S. từ nhỏ. Có lúc khối u to quá đã vỡ ra ngoài khiến S. chảy máu đến ngất đi tưởng chết.

Mới đây, gia đình cũng đã cố gắng thu xếp vay mượn  để có tiền đưa S. ra Hà Nội khám bệnh. Khi S. đến khám tại Bệnh viện Việt Đức thì khối u khổng lồ đã phát triển hết toàn bộ vùng lưng mông và toàn bộ đùi gối T chiếm quá nửa cơ thể. Chỗ khối u bị vỡ để lại một vết loét sâu to hơn bàn tay hàng năm trời vẫn chưa liền.

PGS.TS. Nguyễn Hồng Hà, trưởng khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ- Bệnh viện Việt Đức cho biết, bệnh nhân S. vào viện trong tình trạng nhợt nhạt suy kiệt thiếu máu nặng do mất máu mạn tính, đi lại thì rất khó khăn gần như phải bò xuống đường hoặc ngồi xe lăn vì không đủ sức vác nổi khối u. Cả cổ xương đùi bên trái cũng đã biến dạng và gãy gục vì phải vác 1 khối u quá to trong nhiều năm. Nhiệt độ khối U cũng nóng hơn bình thường 1 đến 2 độ chứng tỏ trong khối u có sự tăng sinh mạch máu rất lớn dẫn đến nguy cơ chảy máu cao trong mổ .

Thăm khám lâm sàng các BS chẩn đoán bệnh nhân bị chứng bệnh u xơ thần kinh. Bệnh nhân được chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, chụp chiếu chẩn đoán hình ảnh để đánh giá mức độ tình hình khối u và sức khỏe bệnh nhân.

“Các kỹ thuật viên cũng rất kinh ngạc  khi  thấy u to đến nỗi không thể đưa bệnh nhân vào lồng chụp cộng hưởng từ được do đó không phân biệt được đâu là khối u và đâu là dây thần kinh. Nguy cơ cắt bỏ dây thần kinh hông khoeo to ở vùng mông dẫn đến liệt hoàn toàn chi dưới là rất cao”- PGS.TS Nguyễn Hồng Hà cho hay.

Các bác sĩ đang tiến hành ca phẫu thuật giải thoát khối u xơ thần kinh cho bệnh nhân S.                                                  Ảnh BVCC

3 khó khăn trong việc "giải thoát" khối u có trọng lượng lớn hơn cơ thể bệnh nhân

Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Hà, đối với trường hợp của bệnh nhân S, để thực hiện giải phóng khối u này, các chuyên gia đã khó khăn đặt ra các khó khăn để tìm cách hóa giải.

Khó khăn thứ nhất là khối u của bệnh nhân S. quá to chiếm quá nửa cơ thể của bệnh nhân, riêng trọng lượng khối u có thể lên đến 40-45 kg nên nếu cố gắng cắt hết u trong một lần phẫu thuật có thể bệnh nhân sẽ không qua khỏi thậm chí là tử vong trên bàn mổ.

“Các bác sĩ đã quyết định phải tiến hành phẫu thuật theo nhiều giai đoạn ít nhất là hai lần. Lần đầu lấy tối đa khối u vùng lưng và mông của bệnh nhân. Nếu như bệnh nhân có thể bình phục được sau lần mổ thứ nhất thì sẽ tiến hành cắt tiếp khối u vùng đùi gối bên trái, thậm chí có thể phải tháo bỏ khớp háng bên trái nếu chảy máu quá nhiều”- PGS.TS Hà thông tin.

Khó khăn tiếp theo được kể đến là do khối u quá to không thể đưa vào lồng chụp cộng hưởng từ được nên không thể phân biệt được giữa khối u và các dây thần kinh vận động cho hai chân. Vì vậy sẽ rất nguy hiểm trong lúc mổ bóc khối u rất dễ gây tổn thương vào thần kinh hông khoeo dẫn đến liệt hai chi dưới.

Và khó khăn cuối cùng là khối u tăng sinh mạch máu rất nhiều chảy máu dữ dội trong mổ vì vậy các bác sĩ đã phải dùng đến hai dao siêu âm cực lớn vốn chỉ được  dùng cầm máu trong cắt gan để vừa mổ vừa hàn mạch, giảm nguy cơ chảy máu.

Trước thực tế này, Ban Giám đốc Bệnh viện Việt Đức đã tổ chức một cuộc hội chẩn liên chuyên khoa trong toàn bệnh viện: Hàng chục chuyên gia từ các chuyên khoa như Huyết học, Truyền máu, Thận lọc máu, Chẩn đoán hình ảnh, Gây mê hồi sức, Chấn thương chỉnh hình … phối hợp với các bác sỹ Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ thăm khám kỹ càng và đề ra phương án điều trị lâu dài cho người bệnh.

23 kg khối u trên tổng số 40kg khối u được cắt ra khỏi cơ thể bệnh nhân S.                                                   Ảnh BVCC

Kíp phẫu thuật huy động hơn 10 phẫu thuật viên và 20 nhân viên, bác sỹ khu mổ và gây mê hồi sức. Sau hơn 8 tiếng phẫu thuật các bác sỹ đã cắt gần hêt khối u vùng lưng và mông khoảng 23 kg (Phần u lớn đùi và gối trái không thể phẫu thuật cùng lúc nên phải để chờ phẫu thuật tiếp theo). Tổng lượng máu phải truyền cho bệnh nhân là hơn 5 lít.

TS. Đào Văn Giang, một thành viên của kíp mổ cho biết, hiện bệnh nhân đã qua giai đoạn hồi sức tích cực nhưng vẫn còn trong tình trạng phải theo dõi sát chức năng tim phổi, thận, gan có thể hồi phục như thế nào sau một ca mổ kéo dài và rất lớn này. Bệnh nhân cũng cần điều trị kháng sinh tốt để chống nhiễm trùng. Tiếp tục truyền máu, truyền đạm nâng cao thể trạng và giúp cho quá trình liền vết thương.

Về lâu dài nếu tình trạng bệnh nhân ổn định sau lần mổ đầu tiên thì có thể tính đến phẫu thuật tiếp để lấy bớt khối u vùng đùi và gối trái, giúp giảm nhẹ gánh nặng cho bệnh nhân và phòng ngừa nguy cơ ung thư hóa.

Theo Th.S Trần Thị Thanh Huyền khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ bệnh viện Việt Đức, U xơ thần kinh (Neurofibromatosis NF) thường có 3 typ. Trong 3 loại này loại typ 1 (NF1) là hay gặp nhất, nó còn được gọi là bệnh Von Recklinghausen hay u xơ thần kinh biểu hiện ở da, sau đến typ 2 thường biểu hiện ở trong nội tạng hay trong hệ thần kinh trung ương và typ 3 hiếm gặp. Tỷ lệ mắc bệnh Von Recklinghausen (NF1) là 1/2000 dân; typ 2 là 1/35.000 dân.Một trong những nguyên nhân của bệnh NF1 là do biến đổi cấu trúc gen trên nhiễm sắc thể số 17, sự biển đổi này ảnh hưởng đến gen quy định về xơ sợi thần kinh làm phát triển khối u theo chiều hướng ác tính hoặc lành tính. Theo y văn thế giới tỷ lệ di truyền của bệnh này là 50/50, như vậy có những trường hợp bệnh nhân mắc bệnh nhưng không có thành viên nào trong gia đình mắc bệnh. Hiểu theo cách khác là nếu một trong hai bố mẹ bị bệnh thì tỉ lệ có thể bị bệnh của con cái là 50/50.Điều trị gồm phẫu thuật cắt bỏ u tận gốc chỗ ra của dây thần kinh bị bệnh, xạ trị, hóa chất và phẫu thuật tạo hình.NF rất dễ tiến triển thành ung thư nên phải thường xuyên kiểm tra giải phẫu bệnh các khối u. Đây là bệnh lý do biến đổi gen nên nếu bệnh nhân có khối u xơ thần kinh cần xin ý kiến chuyên gia di truyền về khả năng truyền bệnh trước khi có con.

 

Thái Bình

Nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụng

Phình ĐMC bụng giai đoạn đầu hầu hết không có triệu chứng gì, thường được phát hiện tình cờ khi siêu âm hoặc chụp phim cắt lớp vi tính. Tiêu chuẩn chẩn đoán phình ĐMC khi một đoạn ĐMC giãn ra ít nhất gấp 1,5 lần kích thước bình thường của nó.

Dấu hiệu khi bị phình và đe dọa vỡ phình

Triệu chứng đau vùng bụng, đau thường khu trú tại vùng hạ vị hay phía sau lưng. Cảm giác đau thường liên tục, bứt rứt kéo dài hàng giờ đến nhiều ngày. Ngược lại với đau cơ xương vùng lưng, vận động không ảnh hưởng đến cảm giác đau do phình, mặc dù ở một tư thế nhất định nào đó có thể người bệnh cũng cảm thấy dễ chịu hơn.

Việc xuất hiện những cơn đau mới hay đau tăng lên thường xuất hiện đột ngột có thể báo trước sự giãn thêm ra hoặc đe doạ vỡ phình. Cơn đau có đặc điểm đau liên miên không dứt, dữ dội và khu trú ở sau lưng hay phần bụng dưới. Cảm giác đau có thể lan xuống vùng bẹn, ra vùng hông, hay xuống chân. Vỡ phình thực sự kèm theo một cơn đau lưng đột ngột cùng với đau bụng và bụng căng cứng. Hầu hết các bệnh nhân đều có một khối, có thể sờ thấy ở bụng và đập theo nhịp tim kèm theo tụt huyết áp được xem là biểu hiện đặc trưng của phình ĐMC bụng.

Nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụngCan thiệp nội mạch (stent-graft) ngăn ngừa vỡ phình động mạch chủ bụng.

Phình ĐMC bụng có các dấu hiệu dọa vỡ, bệnh nhân đột ngột đau bụng dữ dội, tương tự như những tình trạng bệnh lý cấp tính ở bụng khác như cơn đau quặn thận, viêm ruột thừa, hay xuất huyết dạ dày - ruột.

Nguyên nhân gây phình ĐMC bụng

Có nhiều nguyên nhân gây ra phình ĐMC bụng. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ mạnh nhất gây phình ĐMC bụng, tiếp theo là tuổi tác, tăng huyết áp, tăng cholesterol máu và xơ vữa động mạch. Giới tính và yếu tố di truyền cũng ảnh hưởng đến quá trình hình thành phình ĐMC.

Tỷ lệ bị phình ĐMC bụng tăng nhanh sau 55 tuổi ở nam giới và 70 tuổi ở nữ giới. Xơ vữa động mạch được cho là nguyên nhân lớn gây phình ĐMC bụng. ĐMC bụng dưới thận chịu ảnh hưởng của quá trình vữa xơ động mạch nhiều nhất và là vị trí hay gặp của phình ĐMC bụng.

Điều trị thế nào?

Với phình ĐMC bụng có nguy cơ vỡ thấp (đường kính dưới 5cm) được điều trị nội khoa, kiểm soát các yếu tố nguy cơ là điều quan trọng nhất.Kiểm soát chặt chẽ huyết áp và rối loạn lipid máu. Dùng thuốc chẹn bêta giao cảm làm giảm sự tiến triển của khối phình và giảm nguy cơ bị vỡ.

Nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụngCần kiểm tra huyết áp thường xuyên để phòng ngừa nguy cơ mắc bệnh. Ảnh: TM

Bên cạnh phương pháp phẫu thuật kinh điển thay đoạn động mạch phình bằng đoạn động mạch nhân tạo thì hiện nay bác sĩ sẽ tiến hành điều trị can thiệp nội mạch (stent-graft). Bác sĩ sẽ đặt đoạn mạch nhân tạo đặt luồn qua da mà không cần phẫu thuật. Thời gian làm can thiệp thường chỉ kéo dài khoảng 60 phút. Sau đó, bệnh nhân sẽ được chuyển về khoa theo dõi tiếp trong 2 ngày.

Lời khuyên của thầy thuốc

Phình ĐMC bụng giai đoạn đầu hầu hết không có triệu chứng gì, vì thế việc khám sức khỏe định kỳ đều đặn để có thể phát hiện bệnh sớm. Đặc biệt là những người có tiền sử gia đình bị phình ĐMC bụng hay những người trên 60 tuổi có tiền sử hút thuốc lá hay tăng huyết áp. Chụp cắt lớp vi tính, siêu âm ĐMC, chụp cộng hưởng từ là các phương pháp chẩn đoán có giá trị trong tầm soát bệnh. Khi phát hiện có phình động mạch chủ bụng thì quan trọng nhất là theo dõi tốc độ thay đổi kích thước túi phình để có quyết định điều trị can thiệp kịp thời tránh khối phình vỡ sẽ dẫn đến tử vong. Lưu ý, tỷ lệ tử vong do vỡ phình rất cao: 25% tử vong trước khi đến được bệnh viện và 51% tử vong trong bệnh viện mà chưa kịp làm phẫu thuật.

Nguy cơ trụy tim mạch do vỡ phình ĐMC bụngChoáng mất máu và các biến chứng của vỡ phình ĐMC có thể xảy ra nhanh chóng. Chảy máu sau phúc mạc có thể biểu hiện bằng tụ máu ở bên sườn và vùng bẹn. Vỡ vào khoang phúc mạc có thể dẫn đến căng cứng bụng, trong khi vỡ vào trong tá tràng biểu hiện bằng xuất huyết dạ dày - ruột ồ ạt. Dòng máu chảy qua chỗ phình bị rối loạn và có thể hình thành các cục máu đông dọc theo thành động mạch. Cục máu đông này cùng với những mảnh xơ vữa động mạch có thể trôi theo dòng máu gây thuyên tắc mạch và ảnh hưởng đến tuần hoàn của các động mạch phía xa. Tuy nhiên, vỡ phình ĐMC là nguy hiểm nhất. Khi vỡ phình ĐMC xảy ra thì có tới 80% các trường hợp bị vỡ vào phía sau phúc mạc bên trái và có thể làm hạn chế phần nào sự vỡ ra, trong khi hầu hết các trường hợp còn lại vỡ vào khoang phúc mạc và gây chảy máu không kiểm soát được dẫn đến truỵ tim mạch nhanh chóng.

BS. Trần Văn Khanh

Những điều nên tránh sau khi “vượt cạn”

Sinh nở là thiên chức, đồng thời là hạnh phúc của người phụ nữ. Tuy vậy, trong giai đoạn sáu tháng đầu sau khi sinh con, họ nhất thiết phải tránh những điều sau thì mới có thể duy trì sức khỏe và vẻ đẹp của bản thân mình.

Không giữ ấm cơ thể

Mặc kín toàn thân là một việc không dễ dàng đối với sản phụ bị nực sữa, ngay cả những người sinh con vào mùa đông. Hầu hết phụ nữ trong giai đoạn ở cữ đều cảm thấy hết sức nóng nực, nhưng nếu toàn thân không được giữ ấm và kín, sau này rất có thể họ sẽ rơi vào tình trạng “thiên hạ chưa rét thì mình đã rét”.

Thậm chí, có một số người còn phải mặc áo rét giữa tiết trời mùa hè nóng bức. Nhất là vùng bụng của sản phụ, nếu hay bị hở trong thời kì ở cữ, về sau sẽ rất hay bị đau bụng, lạnh bụng.

Ngồi nhiều, luôn cho con bú trong tư thế ngồi

Cơ thể người phụ nữ vừa mới sinh còn yếu, xương cốt vừa phải trải qua một trận “tập dượt” khá nặng nên chưa thể trở lại ngay trạng thái bình thường. Nếu ngồi nhiều sẽ dễ mắc chứng đau lưng kinh niên.

 Sau sinh không nên ngồi nhiều. Ảnh: corbis

Hơn nữa, tử cung bị co thắt mạnh chưa hồi phục, việc ngồi quá nhiều, nhất là ngồi xổm khiến cho tử cung có thể bị sa. Điều này gây nguy cơ đối với sức khỏe cũng như những lần sinh sau của sản phụ. Tốt nhất là nên đi lại nhẹ nhàng 1, 2 lần trong ngày để cơ thể được vận động, từ đó điều hòa khí huyết.

Nói quá nhiều, quá nhanh

Đây là đặc tính của nhiều chị em, rất khó bỏ ngay cả khi vừa sinh con. Tuy nhiên phải quyết tâm, nếu không sẽ có thể mắc phải tật nói líu lưỡi, nói nhịu.

Tẩm bổ quá nhiều

Nhiều phụ nữ thường xuyên lo lắng rằng mình không có đủ sữa cho em bé bú. Vì vậy, họ ra sức ăn thật nhiều mà chủ yếu là ăn những đồ ăn giàu đạm như: móng giò, thịt lợn, thịt gà… Kết quả là thân hình ai nấy đều “nở ra” một cách không thể phanh lại được. Chính điều này sẽ lại biến thành nỗi lo lớn của họ khi sắp sửa đi làm trở lại.

Ăn ít rau củ và hoa quả

Đối với cơ thể sản phụ cũng như em bé, nguồn vitamin và khoáng chất có dồi dào trong hoa quả và rau củ là vô cùng cần thiết. Nó giúp cho hai mẹ con có được sức đề kháng tốt hơn, da dẻ hồng hào và mịn màng hơn. Do đó, thực đơn dành cho sản phụ nhất thiết phải được cân đối giữa phần thức ăn giàu đạm với rau, củ, quả giàu vitamin.

Kiêng tắm gội quá lâu

Mặc dù rất khó chịu do cả ngày sữa chảy đầm đìa, mồ hôi nhễ nhại nhưng chị em vẫn cố nhịn tắm gội vì kiêng. Thực ra chỉ cần kiêng tắm gội trong khoảng một tuần, nhưng trong thời gian này sản phụ nên lau người nhẹ nhàng và thay quần áo thường xuyên.

Kiêng tắm rửa quá lâu sẽ càng làm cho sản phụ thêm mệt mỏi, thậm chí ăn không ngon, ngủ không yên, khó có thể có đủ sức lực để chăm sóc em bé. Như vậy mới là yếu tố dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe sau này.

Quá lo lắng về vóc dáng mình

Ai sinh con cũng đều có sự thay đổi về vẻ ngoài, không nhiều thì ít. Nhưng đó chỉ là giai đoạn ban đầu, nếu chịu khó tập luyện, bạn hoàn toàn có thể lấy lại một cơ thể săn chắc. Hơn nữa, thực tế cho thấy, đa phần phụ nữ sau khi sinh con đều đẹp lên, đó là sự mặn mà của “bông hoa vừa khai hoa nở nhụy”. Cho nên bạn đừng quá lo lắng sẽ dễ bị stress, chính điều này có thể làm cho bạn xấu đi đấy.

Ngại “gần gũi” chồng

Phải thừa nhận rằng sản phụ nào cũng rất bận rộn, mệt nhọc vì phải lo cho em bé. Nhưng đừng quên còn một “em bé trong hình hài người đàn ông” của chúng ta cần được quan tâm, chăm sóc và chia sẻ. Họ là những người phải giữ trọng trách trụ cột gia đình, trong khi việc có thêm em bé sẽ khiến cho gánh nặng về kinh tế càng tăng. Nhiều phụ nữ từ khi có con do quá mãi chăm sóc con mà xao nhãng “chuyện ấy” với chồng là điều không nên, vì hậu quả của nó đôi khi rất khó lường.

Quên bổ sung các vi chất cần thiết

Đó là các chất sắt, canxi, vitamin A, D… chỉ trông đợi từ nguồn thức ăn hàng ngày là không đủ, mà sản phụ cần bổ sung những vi chất này thường xuyên, bằng cách dùng thuốc từ giai đoạn mang thai cho đến nhiều tháng sau khi sinh.

Những sản phụ nuôi con bằng sữa mẹ lại càng cần phải chú ý điều này, vì ngoài nhu cầu cho cơ thể mẹ còn phải “chia” cho cả em bé. Nếu không, lượng sữa tiết ra hằng ngày sẽ “rút” dần những chất này của người mẹ đến mức cạn kiệt. Cơ thể thiếu nhiều loại vi chất rất khó có thể hồi phục lại sức khỏe ban đầu, nguy hiểm hơn có thể để lại những biến chứng về sau.

Suốt ngày ở trong phòng kín

Cho dù là mới sinh, người phụ nữ cũng rất cần được thường xuyên tiếp xúc với bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Vì thế, không nên nhốt mình cả ngày ở trong buồng mà thỉnh thoảng phải đi ra những chỗ không khí được lưu thông. Chỉ cần chú ý tránh những nơi hút gió hay có gió lùa.

Cần phơi nắng sớm hàng ngày (trước 9 giờ sáng), cho cả mẹ và con là tốt nhất
 

Đây là mẫu, bạn có thể sửa lại ảnh, màu nền, kích cỡ của bảng tùy theo nhu cầu.

Bên cạnh đó, cần phơi nắng sớm hàng ngày (trước 9 giờ sáng), cho cả mẹ và con là tốt nhất, kết hợp với tập thể dục nhẹ nhàng.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh Vân)

Phòng tránh tắc tia sữa

Cháu tôi mới sinh con được 15 ngày, cháu đã có sữa nhưng ít và kêu đau, tức ngực, có phải cháu bị viêm tắc tia sữa không? Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân, cách phòng tránh?

Vũ Thị Huyền(Lạng Sơn)

Viêm tắc tia sữa là quá trình bế tắc, ứ đọng sữa khi phụ nữ cho con bú. Hay gặp ở phụ nữ sinh con đầu lòng. Triệu chứng điển hình là bầu vú sưng, nóng, đau, sốt. Nguyên nhân là do khi mang bầu không vệ sinh đầu vú, không day đều bầu sữa để thông tia sữa ngay sau khi sinh con. Trẻ bú quá ít khiến sữa bị ứ đọng gây ôi, tắc. Để không bị tắc tia sữa, người mẹ phải giữ thật sạch đầu vú, nhất là ở các kẽ của núm vú. Trước khi cho trẻ bú phải lau sạch và vắt một vài giọt sữa đầu bỏ đi, khi bú xong lại phải lau sạch, khô. Khi thấy sữa chảy không thành tia hoặc có tia bị tắc thì phải dùng tay xoa vú cho mềm, dùng ống hút sữa hoặc dùng tay vắt mạnh để thông sữa. Có thể dùng khăn ấm hoặc túi chườm nóng kết hợp với day ép để tăng nhanh hiệu quả điều trị. Khi thực hiện như trên mà không thấy có kết quả, nhất là khi thấy vú sưng đỏ, sốt cao thì phải tới bác sĩ chuyên khoa khám để tránh bị áp-xe vú.

BS. Phương Thu

Có phải do nhiễm khuẩn âm đạo?

Khi âm đạo có nhiều dịch, dịch giống như mủ, có mùi hôi và âm đạo đau khi thăm khám, thường đã bị bệnh lây truyền qua đường tình dục...

Vi khuẩn Chlamydia trên kính hiển vi. 

Xuất tiết ở âm đạo được coi là bình thường khi dịch đó có màu trắng hay như sữa, không mùi, không màu, không gây ngứa, rát và không làm khô cứng quần lót. Chính dịch âm đạo bình thường là phương tiện để cơ thể tự làm sạch âm đạo; lớp tế bào chết trên thành âm đạo cũng giúp cho tiến trình tự làm sạch. Lượng dịch âm đạo và màu sắc dịch thay đổi theo từng thời kỳ trong chu kỳ kinh và trong từng giai đoạn của thai nghén.

Hầu hết phụ nữ đều có 1 lần trong đời bị viêm nhiễm âm đạo và 9/10 số đó là do nấm hay vi khuẩn, 1/10 là do trùng roi.

Có 6 thể viêm âm đạo thường gặp nhất là:

Viêm âm đạo do nấm: Thường gặp do một trong số các chủng nấm có tên là Candida gây ra. Nhiễm nấm làm cho dịch âm đạo đặc lại, dai dính, cũng có thể hơi lỏng nhưng không có mùi, âm hộ và niêm mạc âm đạo thường đỏ, rất ngứa.

Viêm âm đạo do loạn khuẩn: Do sự phát triển của nhiều loại vi khuẩn chứ không phải là nấm khi môi trường âm đạo bị mất cân bằng, nhưng nguyên nhân đích thực của sự phát triển quá mức các loại vi khuẩn vẫn chưa rõ. Viêm âm đạo này là thể hay gặp nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Thường ra khí hư có màu trắng như sữa và mỏng, có mùi hôi như mùi cá ươn, càng rõ hơn sau quan hệ tình dục. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là nhiều phụ nữ bị bệnh nhưng lại không có triệu chứng gì, chỉ được chẩn đoán khi đi khám phụ khoa theo thông lệ. Điều trị phức tạp hơn vì có nhiều loại vi khuẩn phối hợp.

Viêm âm đạo do trùng roi, do Chlamydia và do virut: Nếu do trùng roi: khí hư màu vàng, thường có mùi hôi, ngứa và đau ở âm đạo và âm hộ, đái buốt, có thể có cảm giác khó chịu ở bụng dưới và đau ở âm đạo khi giao hợp - những triệu chứng này có thể tăng lên sau giai đoạn hành kinh. Tuy nhiên cũng có nhiều phụ nữ không thấy có triệu chứng gì. Bệnh có thể lây nhiễm qua quan hệ tình dục. Để điều trị có hiệu quả, cần đồng thời chữa cho cả bạn tình.

Thể viêm âm đạo do Chlamydia: Nhiều phụ nữ mắc nhưng hầu hết không biểu hiện triệu chứng gì, vì thế chẩn đoán khó khăn. Thể viêm âm đạo này đôi khi không gây ra khí hư, nhiều phụ nữ chỉ thấy ra máu chút ít, nhất là sau khi quan hệ tình dục, đau bụng dưới và vùng tiểu khung.

Viêm âm đạo do virut: Virus herpes I và II gây mụn rộp sinh dục với những tổn thương nhìn thấy ở âm hộ, âm đạo. Khi nhiễm loại virut này thường kèm theo stress hoặc những biến động về cảm xúc. Một loại virut khác là HPV - virut gây u nhú ở người, cũng lây truyền do quan hệ tình dục, làm mọc ở âm hộ, âm đạo, vùng cổ tử cung (có khi cả trực tràng và bẹn) một hoặc nhiều u nhú không cuống, không đau.

Viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: Nguyên nhân thường gặp là do dị ứng với thuốc, do bơm rửa hoặc do thuốc diệt tinh trùng. Vùng da quanh âm đạo nhạy cảm với xà phòng, chất tẩy trắng và chất làm mềm vải. Phụ nữ tuổi mãn kinh hoặc bị cắt 2 buồng trứng có sự suy giảm hormon, bị khô hoặc "teo" âm đạo cũng có những triệu chứng của thể viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: đau, nhất là khi quan hệ tình dục, ngứa và nóng rát.

Mặc dầu mỗi nguyên nhân gây ra viêm này có thể có những triệu chứng khác nhau nhưng người phụ nữ không dễ dàng nhận ra mình mắc thể bệnh nào, trong thực tê, nhiều khi những thầy thuốc có kinh nghiệm cũng có thể gặp khó khăn chẩn đoán do hơn một thể bệnh cùng kết hợp. Nhiều khi viêm âm đạo lại không biểu hiện triệu chứng gì.

Vì tính chất phức tạp của chẩn đoán các nhiễm khuẩn âm đạo, cho nên thầy thuốc không thể chỉ dựa trên sự mô tả của người bệnh mà cần trực tiếp quan sát dịch, niêm mạc âm đạo và khám vùng tiểu khung, làm một số xét nghiệm.         

BS. Xuân Anh

Nhận diện thiểu năng tuần hoàn não

Cháu đã uống thuốc theo đơn và uống cả thuốc Đông y... nhưng bệnh không tiến triển. Xin hỏi, bệnh có nguy hiểm không, chữa thế nào?

Hoàng Thị Trang (Nghệ An)

Thiểu năng tuần hoàn não (TNTHN) là bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất ở người cao tuổi, đặc biệt là người lao động trí óc. Bệnh có nguy cơ gây tử vong thứ ba sau bệnh tim mạch và ung thư. Bệnh TNTHN tiến triển từ từ. Mới đầu bệnh nhân thấy mệt mỏi, không thấy vui vẻ, kém hoạt bát, tính tình thay đổi dần, những điều thích thú quan tâm trước đây nay thấy nhạt nhẽo, ưa nơi yên tĩnh. Khi bệnh nặng lên, bệnh nhân sẽ thấy nhức đầu lan tỏa khắp đầu, có cảm giác căng nặng trong đầu, nhất là mỗi khi phải suy nghĩ nhiều. Cùng với nhức đầu là chóng mặt (gặp 87% trường hợp) hoặc bập bềnh như say sóng; hoa mắt, tối sầm mặt, nhất là khi chuyển tư thế nằm sang tư thế đứng đột ngột (cơn chóng mặt có thể chỉ vài phút, nhưng có khi dài đến vài ngày); xuất hiện dị cảm như cảm giác tê tê, bì bì ở đầu ngón, cảm giác kiến bò, đau dọc các xương sườn, có tiếng ve kêu, cối xay lúa trong tai; rối loạn về giấc ngủ, rối loạn về sự chú ý dẫn đến suy nhược cả cơ thể lẫn tinh thần, đãng trí, khả năng tập trung tư tưởng rất kém; rối loạn về cảm xúc, cảm thấy bồn chồn, không làm chủ được mình, hay mủi lòng, dễ tủi thân; thay đổi nhân cách... Cháu nên đi khám chuyên khoa thần kinh tại bệnh viện để có kết luận chính xác và điều trị.

BS. Vũ Nhân

Thiết bị mới xác định nấm men gây bệnh nghiêm trọng

Candida auris thuộc họ vi khuẩn gây bệnh tưa miệng. Tuy nhiên, các nhiễm khuẩn nấm thường gây nhiễm khuẩn ở bộ phận sinh dục và miệng, còn Candida auris “hoành hành” ở đường tiết niệu và đường hô hấp. Điều này đồng nghĩa với việc các nấm men có thể đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể, gây nhiễm khuẩn xâm lấn nghiêm trọng.

Hệ thống BRUKER MALDI Biotyper CA sử dụng công nghệ phổ khối lượng hấp phụ/ion hóa bằng laser ma trận (MALDI-TOF) kết hợp với cơ sở dữ liệu sinh vật tham chiếu. Vi sinh vật nuôi cấy từ các mẫu bệnh phẩm được ion hóa bằng laser để tạo ra một phổ sinh vật, được kết hợp với cơ sở dữ liệu sinh vật tham chiếu cho phép xác định chính xác mầm bệnh.

Việc cho phép sử dụng hệ thống này rất quan trọng để xác định kịp thời các vi sinh vật liên quan đến các vụ dịch mới nổi, kịp thời chăm sóc và điều trị cho người bệnh.

Bảo Lâm

((Theo FDA, 4/2018))

Thay đổi lối sống tốt cho bệnh suy tim

Nó là hậu quả của nhiều bệnh lý khác nhau, chẳng hạn như bệnh mạch vành, bệnh van tim, cơ tim, màng ngoài tim, loạn nhịp tim,… Bệnh có thể gặp ở mọi độ tuổi, khi mắc người bệnh suy tim sẽ bị ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống và biến chứng nặng nề nhất là có thể gây đột qụy. Vì vậy, việc hiểu đúng bệnh để biết cách chăm sóc là rất quan trọng.

Nhận biết triệu chứng

Suy tim tiến triển từ từ trong nhiều năm, đôi khi cũng có những đợt cấp có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Đây là một hội chứng ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh bởi có các biểu hiện sau:

Mệt mỏi: Đây là một trong các triệu chứng thường hay gặp nhất ở người bệnh có rối loạn chức năng tim mạch, tuy nhiên mệt là triệu chứng không đặc hiệu. Mệt khi thực hiện những việc đơn giản như đi thang bộ lên lầu, xách giỏ đi chợ hay đi bộ... có thể đó là những dấu hiệu cảnh báo trái tim của bạn đang bị suy yếu.

Suy tim cần được phát hiện và điều trị sớm.

Suy tim cần được phát hiện và điều trị sớm.

Khó thở: Khi tim bị suy, co bóp kém nên ứ máu phổi, các mạch máu ở phổi giãn căng, áp lực cao chèn ép phế quản gây khó thở. Đây là triệu chứng hay gặp nhất của suy tim, người bệnh có cảm giác hụt hơi, hồi hộp, ngộp thở, tình trạng khó thở tăng lên khi gắng sức hoặc khi nằm đầu thấp. Khó thở thường về đêm, người bệnh thường bị thức giấc do bị ngộp thở, ho khan phải ngồi dậy hoặc nằm đầu cao mới dễ chịu, trường hợp suy tim nặng người bệnh luôn phải ngủ ở tư thế ngồi. Khó thở khi gắng sức thường kèm khó thở khi nằm hoặc khó thở kịch phát về đêm.

Đau thắt ngực: Đau ngực thường xảy ra sau gắng sức, vị trí đau ở vùng ngực trái trước tim nhưng cũng có thể là cảm giác nặng ngực, tức ngực, ngực bị thắt nghẹn, bị ép, hiếm khi người bệnh có triệu chứng đau nhói như dao đâm. Đau ngực thường giảm khi nghỉ ngơi.

Phù: Thường xảy ra chiều tối, bắt đầu ở chân, người bệnh thường cảm giác đi giày chật, phù đối xứng. Khi suy tim nặng, phù thêm ở đùi, mặt, bụng, phù tăng khi ăn mặn. Thường người bệnh hay có triệu chứng khó thở đi kèm.

Ho: Ho trong trường hợp suy tim là ho khan, khó khạc đờm. Ho làm người bệnh mất ngủ, ho do suy tim ở giai đoạn đầu rất dễ nhầm với các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp.

Ai dễ mắc chứng suy tim?

Bệnh suy tim thường xảy ra ở những người có tuổi, tuy nhiên ngày nay cuộc sống hiện đại và lối sống không lành mạnh nên bệnh đang trẻ hóa. Ngoài ra, những yếu tố có nguy cơ dẫn đến bệnh tim mạch như tăng huyết áp, đái tháo đường và cholesterol máu cao cũng gia tăng. Người ta cũng ghi nhận được người còn rất trẻ cũng bị bệnh tim. Khi mà họ là nạn nhân của chứng nhồi máu cơ tim hoặc nhiễm virut có ảnh hưởng đến tim. Cũng nên cẩn thận với việc lạm dụng rượu mạnh, rất có hại cho sức khỏe.

Người bệnh suy tim nên ăn uống luyện tập thế nào?

Người bệnh suy tim cần dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Không bao giờ dừng thuốc, thay đổi liều hoặc uống bất kỳ loại thuốc nào khác mà không được bác sĩ kê đơn.

Ngoài ra, bệnh nhân cần thay đổi lối sống là xây dựng lối sống đúng đắn, thực hiện một chế độ ăn hợp lý, có chương trình tập luyện thể dục và nghỉ ngơi phù hợp, đây là 3 biện pháp mà bệnh nhân suy tim phải biết.

Bệnh nhân suy tim cũng cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để có chế độ ăn đúng, giúp bổ sung được những chất còn thiếu, giảm cân một cách khoa học và phù hợp với tình trạng bệnh tật nhưng vẫn ngon miệng.

Về lượng muối: nếu ăn quá nhiều muối (ăn mặn) sẽ gây ứ dịch và phù, gây co mạch làm tăng huyết áp, dẫn đến làm nặng thêm tình trạng suy tim. Bệnh nhân suy tim không được dùng quá 2g muối/ ngày (chưa đến 1 thìa cafe). Và lượng muối ăn vào mỗi ngày được tính từ tất cả các nguồn thức ăn, nước uống.

Cholesterol và chất béo: nếu cholesterol máu cao có thể gây bệnh lý mạch vành, gây suy tim. Do đó, bệnh nhân suy tim phải hạn chế mỡ hòa tan (là loại mỡ gây tăng cholesterol), thường có trong các loại thực phẩm: các loại thịt có màu đỏ, lòng đỏ trứng gà, thức ăn có nguồn gốc từ động vật, do đó, nên thay thế các loại mỡ động vật bằng các loại dầu thực vật,...

Người bệnh suy tim nên bỏ rượu hoặc phải hết sức hạn chế: uống không quá 1 ly bia hoặc 1 ly rượu vang mỗi ngày. Nên hạn chế tối đa cà phê và các thức uống giải khát có chứa chất caffein như nước tăng lực… Còn khi đã suy tim nặng thì nhất thiết phải bỏ rượu bia.

Bệnh nhân suy tim nên ăn nhiều thực phẩm chứa kali và magnesium, vì chúng rất cần cho hoạt động của tế bào cơ tim và vì bệnh nhân thường bị giảm kali do dùng thuốc lợi tiểu.

Các bài tập thể dục có thể giúp người bệnh suy tim thấy khỏe hơn, giảm căng thẳng và lo lắng, giúp kiểm soát trọng lượng cơ thể, huyết áp và đường huyết.

Các hoạt động thích hợp với người bệnh suy tim thông thường là đi bộ. Đạp xe và bơi lội: có thể được nếu bệnh nhân từng tập luyện trước đây và suy tim không quá nặng. Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân suy tim đều được khuyến cáo bài tập loại gì và mức độ tùy thuộc vào tình trạng suy tim nên cần tham khảo bác sĩ để làm trắc nghiệm khả năng gắng sức hoặc cho ý kiến về môn tập phù hợp.

Những điều nên làm khi tập luyện thể lực là bắt đầu thật chậm, tăng dần thời gian và cường độ vận động nếu thấy đủ sức. Mức vận động cần đạt: ít nhất 30 phút/ ngày (có thể chia thành nhiều lần), trên 5 lần/ tuần.

Tập vào thời điểm nhất định trong ngày để tạo thói quen. Uống 1 tách nước trước, trong và sau khi tập. Mặc quần áo thoáng mát, mang giày nhẹ có dây buộc hoặc giày vải. Làm ấm cơ thể bằng các bài tập co duỗi cơ trước khi vận động. Theo dõi nhịp mạch và mức gắng sức đang thực hiện. Nên tập luyện cùng với một người bạn thân khỏe mạnh. Phải nghỉ ngơi đầy đủ để hồi phục sau vận động.

Những điều cần tránh khi luyện tậpTránh những hoạt động gây các triệu chứng sau: khó thở; choáng váng, chóng mặt; đau ngực; buồn nôn; vã mồ hôi lạnh… nếu xảy ra những dấu hiệu này, phải dừng tập ngay. Tránh những bài tập đòi hỏi nhu cầu giải phóng năng lượng nhanh, cao. Tránh những bài tập mang tính đối kháng, cạnh tranh cao, khiêng vác nặng, có va chạm. Không tập luyện khi đói hoặc ngay sau bữa ăn. Tránh tập luyện trong môi trường quá nóng hoặc quá lạnh hoặc khi cảm thấy không được khỏe.

BS. Mạnh Hùng